Thư kêu gọi xây dưng quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam.

Kính gửi các tổ chức, cá nhân, các nhà doanh nghiệp
cùng toàn thể bà con họ Phạm trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, các hoạt động tình nghĩa của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam cũng như của các Ban Liên lạc họ Phạm các địa phương, của các Hội đồng gia tộc các dòng họ Phạm cả nước đã có nhiều hình thức phong phú, kết quả thiết thực, cụ thể là đã khen thưởng động viên các cháu có bố hoặc mẹ họ Phạm đạt thành tích cao trong học tập và các hoạt động khác, cấp học bổng cho các cháu vượt khó vươn lên học giỏi, đồng thời trợ giúp cho các gia đình họ Phạm gặp khó khăn đặc biệt. Nhiều tổ chức, cá nhân, nhiều nhà doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã đứng ra tài trợ, đóng góp công của cho các hoạt động này, tạo nên tình cảm đồng tộc rất tốt đẹp, đúng với truyền thống văn hiến của Dân tộc ta. Xem tiếp
.

14 tháng 3, 2011

Chuyện về gia đình có ba anh hùng

Đăng ngày Thứ Hai, tháng 3 14, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Chuyện về gia đình có ba anh hùng

LGT : Bài này được đăng trên VTC New ngày 11.2.2011 về gia đình cụ bà Phạm Thị Huệ ở Điện Bàn – Quảng Nam. Cụ Phạm Thị Huệ và con dâu cụ đều là Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, còn con trai cụ là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Câu chuyện dưới đây là nói về ông Đinh Châu con trai cụ Phạm Thị Huệ. BBT

(VTC News) - Ở xã Điện Nam Đông, Điện Bàn (Quảng Nam) có một gia đình rất đặc biệt bởi có đến 3 anh hùng. Đó là gia đình Cụ bà Phạm Thị Huệ. Cụ là Bà mẹ Việt Nam anh hùng có chồng và 3 con trai liệt sĩ. Con dâu bà là Nguyễn Thị Phấn cũng là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có chồng, con và bản thân là liệt sĩ. Ông Đinh Châu (Nguyễn Hữu Đức), con trai Cụ Huệ (chồng bà Phấn) là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Anh Đinh Văn Ba cùng các kỷ vật (bên tráii) và trang sách Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh viết về cha mình.

Người chỉ huy hai trong một

Trong ký ức của các đồng chí Võ Thanh Ba, Đại tá Lê Đình Sanh, Đại tá Nguyễn Văn Trí, chân dung người anh hùng Đinh Châu hiện lên với tài đức vẹn toàn. Ông vừa là một cán bộ quân sự mưu trí, dũng cảm, vừa là một cán bộ chính trị sâu sắc, nhân ái, hết mực thương yêu chiến sĩ. Ở cương vị nào ông cũng đã để lại những dấu ấn khó quên. Sinh năm 1926, từ chỉ huy du kích xã, ông Đinh Châu được cử làm trợ lý Huyện đội Điện Bàn, đại đội trưởng đại đội 230 của Tiểu đoàn 17 Quảng Nam- Đà Nẵng. Tập kết ra Bắc, ông công tác trong Sư đoàn bảo vệ thủ đô 350, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, sau đó về quê hương chiến đấu, trở thành lớp cán bộ quân sự đầu tiên của tỉnh Quảng Nam.

Trong những năm gian khó trăm bề ấy, ông cùng Ban Quân sự tỉnh trực tiếp xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng, phát động chiến tranh nhân dân làm nên những trận đầu thắng lớn của LLVT địa phương như ở làng ông Tía, Gia Lâu, Bốt Xít, Hiệp Đức, Phó Nam. Mặc dù công tác bận rộn nhưng những đợt phá rẫy, tuốt lúa, gùi gạo, trồng sắn, làm nhà, nhất là cải thiện đời sống cho đơn vị, ông đều năng nổ, tích cực, hoà mình vào đời sống chiến sĩ. Đơn vị có ít quân trang, ông luôn nhường cho anh em, còn ông, dù là Tỉnh đội trưởng tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng vẫn bộ bà ba đen bạc phếch, chiếc mũ tai bèo đã sờn, khi đi phát rẫy vẫn quần đùi áo cổ vuông, mong manh bốn mùa.

Trong cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trên cương vị Phó Tham mưu trưởng rồi Tham mưu trưởng Mặt trận 4, Thành đội trưởng Đà Nẵng, ông được Thường vụ Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 cử làm chỉ huy trưởng cánh quân Đông Nam, dùng Tiểu đoàn 1 (R20) thọc sâu, mở bàn đạp cho Sư đoàn 2 phát triển vào nội thành. Gặp sự phản công quyết liệt của địch ở khu vực Trung Lương- Cồn Dầu (Hoà Vang), suốt cả ngày 30-1-1968, ông vừa trực tiếp cầm súng chiến đấu vừa tổ chức động viên cán bộ, chiến sĩ đánh trả kiên cường trong từng mảnh vườn, luỹ tre, từng căn nhà vùng giao tranh, phá được vòng vây trong đêm 30. Gặp tổ phục kích của Mỹ, ông đã hy sinh rạng sáng ngày 31. Đến nay, gia đình vẫn chưa tìm được hài cốt người anh hùng.

Trong buổi tưởng niệm nhân 40 năm ngày mất của ông tại nhà con trai ông trên đường Bế Văn Đàn, thành phố Đà Nẵng, đã có rất đông bạn bè chiến đấu của ông. Không phải bây giờ mà từ nhiều năm nay, Tỉnh đội Quảng Nam, UBND thành phố Đà Nẵng, Sư đoàn Bảo vệ Thủ đô 350, Tiểu đoàn 1 (R20)... đều thường xuyên đến thăm, hương khói. Tên ông sẽ được đặt cho một con đường ở thành phố Đà Nẵng. Liệt sĩ Đinh Châu đã ra đi nhưng ông luôn sống mãi trong nỗi nhớ thương của đồng đội và nhân dân.


Giọt nước mắt trong căn hầm chữ A

Anh Đinh Văn Ba, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc, Bí thư Đảng uỷ Công ty Cổ phần xe khách và dịch vụ Thương mại Đà Nẵng, người còn lại duy nhất của gia đình liệt sĩ Đinh Châu bồi hồi khi kể cho chúng tôi nghe về cha, mẹ và người anh thân yêu của mình. Mới hiểu được vì sao gương mặt người đàn ông này lúc nào cũng phảng phất nổi buồn dù đã thành đạt trong cuộc sống.

“Đầu năm 1964, khi tôi mới lên 10, ba tôi về thăm nhà sau thời gian dài công tác xa. Cả nhà quây quần trong cảnh quê hương điêu tàn bởi tội ác Mỹ- nguỵ. Lúc này, ông nội tôi là Chủ tịch uỷ ban kháng chiến của xã đã hy sinh, bà nội mất, các chú đều đã thoát ly (sau ngày hai người chú là liệt sĩ). Ba bảo tôi và anh Lưu đi theo ba. Mẹ ở căn cứ vài ngày, chăm sóc mấy cha con rồi về vì bà là cán bộ phụ nữ xã, không thể bỏ phong trào mà đi. Nhớ buổi chia tay, bình thường mẹ rất cứng cỏi, vậy mà bây giờ nước mắt vòng quanh. Hình như bà linh tính điều dữ nào đó sẽ ập đến gia đình mình. Tôi nhìn theo bóng mẹ với chiếc áo bà ba đen khuất dần.

Quả thực tôi không muốn xa mẹ, nhưng tôi nghe theo lời tâm huyết của cha: Con phải ra miền Bắc học tập, đây không phải việc của ba, của con mà là việc của nước non, Tổ quốc. Tôi đồng ý lên núi nhưng vẫn chần chừ không ra miền Bắc. Tôi sống cùng các cô chú, còn ba vẫn biền biệt công tác. Một đêm cuối tháng 7 năm 1967, tại xã Lộc Sơn vùng B, Đại Lộc, tôi được gặp cha tôi trong căn hầm chữ A. Cả hai ôm chầm thổn thức. Ba lại nhắc tôi lời nói ngày nào: “Đây không phải việc của ba và con...”. Tôi gật đầu nghe theo. Ba và các cô chú đã chuẩn bị cho tôi đủ thứ để tôi lên đường. Ba tặng tôi chiếc võng dù mà tôi đã giữ mãi bên mình. Sau này tôi nghiệm ra ba tôi lường trước sự ác liệt của chiến trường nên đã chuẩn bị cho tôi một cuộc sống mới.


Ba tháng vượt Trường Sơn, tôi đặt chân lên miền Bắc XHCN, trong lúc đó chiến trường miền Nam sục sôi đánh Mỹ. Chưa được bao lâu trong 2 năm 1967, 1968, tin chồng lên tin như sét đánh ngang tai: mẹ tôi đã anh dũng hy sinh tại quê nhà. Anh Đinh Lưu, chiến sĩ thông tin cũng đã hy sinh trong một trận đánh. Ba hy sinh ở mặt trận Đà Nẵng, khi đang chỉ huy một cánh quân. Tuy nhiên tôi vẫn cố tin rằng, có sự nhầm lẫn nào đó, chứ ba tôi không thể chết. Đầu năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, thôi thúc tôi dừng chân không đi học nước ngoài để tìm gặp ba và những người thân trong gia đình. Khi biết tất cả tin báo đều là sự thật, tôi như gục ngã.

Tôi nhớ cảnh chia ly trong đêm mưa phùn năm nào, nhớ giọt nước mắt của mẹ, lời dặn dò gan ruột của ba. Buổi trùng phùng của gia đình đâu còn nữa như lời hẹn ước. Ngỡ như không còn đủ sức để đi tiếp trên con đường học vấn của mình, nhưng rồi truyền thống gia đình, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, dòng tộc, cô bác ruột thịt đã nâng đỡ tôi dậy. Tôi đã học tiếp đại học Bách khoa.

Anh Ba dừng câu chuyện và đốt nén hương trên bàn thờ cha mình. Tôi nghĩ, anh đã xứng đáng là con trai của người anh hùng và của đại gia đình anh hùng.

Hồng Vân




Có 0 nhận xét cho bài này "Chuyện về gia đình có ba anh hùng"

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails
 
Trang web của BLL Họ Phạm Việt Nam chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 2/2005. Xem phiên bản cũ tại đây
Vui lòng để liên kết về nguồn tin nếu bạn xuất bản lại thông tin trên trang web này.


Trang web được xây dựng từ nền tảng Blogger.com, cung cấp bởi