Thư kêu gọi xây dưng quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam.

Kính gửi các tổ chức, cá nhân, các nhà doanh nghiệp
cùng toàn thể bà con họ Phạm trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, các hoạt động tình nghĩa của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam cũng như của các Ban Liên lạc họ Phạm các địa phương, của các Hội đồng gia tộc các dòng họ Phạm cả nước đã có nhiều hình thức phong phú, kết quả thiết thực, cụ thể là đã khen thưởng động viên các cháu có bố hoặc mẹ họ Phạm đạt thành tích cao trong học tập và các hoạt động khác, cấp học bổng cho các cháu vượt khó vươn lên học giỏi, đồng thời trợ giúp cho các gia đình họ Phạm gặp khó khăn đặc biệt. Nhiều tổ chức, cá nhân, nhiều nhà doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã đứng ra tài trợ, đóng góp công của cho các hoạt động này, tạo nên tình cảm đồng tộc rất tốt đẹp, đúng với truyền thống văn hiến của Dân tộc ta. Xem tiếp
.

29 tháng 6, 2010

Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ

Đăng ngày Thứ Ba, tháng 6 29, 2010 bởi Phạm Đạo · 2 comments

Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
- Linh hồn của những ca khúc, trường ca Phật giáo và Hoà bình, Dân tộc
18/01/2009 18:31 (GMT+7)

Sau mùa pháp nạn 1963, tên tuổi nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, một nhạc sĩ Phật tử bổng nỗi bật lên giữa rừng tân nhạc thời bấy giờ với đủ mọi khuynh hướng tư tưởng vô cùng phức tạp…Vậy mà dân Sài gòn hồi đó không sao quên được những tiếng hát thanh thóat quen thuộc gần như không thể thiếu :”Bóng mát”,”Bông hồng cài áo”,”Sớm mai chim hót”.v.v…cứ vang vang trên đài phát thanh Sài gòn,Huế,Đà nẵng, Đà Lạt, Nha trang…vào các mùa Vu Lan, Phật Đản,Phật thành đạo…hằng năm. Bên cạnh đó là những sinh họat văn nghệ của Đòan Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh do nhạc sĩ giáo sư Phạm Thế Mỹ hướng dẫn ,tập dượt rất kỹ lưỡng ,nghiêm túc và trình độ để chào mừng những ngày lễ lớn của Phật giáo bằng những sáng tác của chính anh, mang nội dung Hòa bình, Đạo pháp và Dân tộc qua các trường ca để đời:
“Lửa Thiêng”,”Con đường trước mặt”,”Thêm một lần hoa nở”…trên các sân khấu Thống nhất, Trần Hưng Đạo, Quốc Thanh, Thiền Viện Vạn Hạnh, Nha trang, Đà lạt….Tiếng hát của dàn hợp xướng gồm những diễn viên sinh viên nghiệp dư chúng tôi đã hòa cùng với chiêng trống Bát Nhã, tiếng chuông,tiếng mỏ đã dìu dắt tâm hồn người nghe trở về với nhạc điệu Phật giáo thật tuyệt vời và kỳ lạ! Phần nhạc kịch cũng độc đáo không kém với các nhạc cảnh “Sắc lụa Trữ La”,”Hòa bình ơi hãy đến”,”Thương quá Việt Nam”…Sau này còn có những “Trang sử mới”,”Trái tim Việt Nam”,”Tiếng hát dậy từ lòng đất”,”Những bài ca xanh”…Tất cả là giấc mơ của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ về một Việt Nam không còn chiến tranh,một Việt Nam Hòa bình với các em bé nông thôn nghèo đói không còn phải chạy bom,chạy đạn ngày đêm…Không còn lo sợ chết chóc ở tuổi phải được đến trường đi học, phải được vui chơi hạnh phúc tuổi thơ trên ruộng vườn, trong xóm làng Việt Nam.

Dư luận báo chí Sài Gòn cũ

Báo chí Sài gòn hồi đó có lệnh cấm,không ai được nói Hòa bình.Đến nỗi chị bạn thân thương Nhất Chi Mai của tôi phải tự thiêu để được nói lên ước nguyện Hòa bình cho Việt Nam!...vì “Sống mình không thể nói, chết mới được nên lời… Hòa bình là có tội,Hòa bình là Cọng sản”…( Thơ Nhất chi Mai). Vậy mà không hiểu sao cũng có vài bài báo đã viết chui,viết lách cách nào mà khắc họa lên được một Phạm Thế Mỹ yêu nước đến cuồng nhiệt, khao khát Hòa bình như điên với một trái tim Việt Nam sục sôi bất khuất…Có một họat cảnh mà báo chí còn chưa biết là họat cảnh “Lời nguyện pháp trường”,suýt bị cảnh sát hỏi thăm! Cho dù vào khỏang tháng 5/1966 tôi đã gặp anh trong tù của An ninh quân đội, anh cũng ngồi trong một cát- sô bên cạnh chúng tôi! Ra tù lại tiếp tục viết nhạc và sinh họat văn nghệ ở đại học Vạn Hạnh…Ý nhạc nghiêng về triết lý Phật giáo nhiều hơn.
Trong các tờ báo trước 1975, có bài đăng tiết mục phê bình thơ nhạc Phạm Thế Mỹ :
- Xin trích báo Diễn Đàn 2. Tiết mục Văn học nghệ thuật:
“Phạm Thế Mỹ là một thi sĩ và là tác giả của nhiều ca khúc rất đẹp…Trong đêm thứ Bảy,19/7/1969 Phạm Thế Mỹ và Đăng Lan đã trình bày những bài thơ và nhạc của anh trước một cử tọa chọn lọc tại thính đường Viện Đại học Vạn Hạnh.Cũng là một nhạc sĩ của tuổi trẻ và của khát vọng Hòa bình ,tuy không trở nên một hiện tượng thời thượng …Nhưng Phạm Thế Mỹ có những nét nhạc độc đáo…nhiều nét lạ và điêu luyện . Lời ca của Mỹ mang nhiều tranh đấu tính…Có lẽ đó cũng là lý do khiến thính giả của Mỹ chỉ là một nhóm chọn lọc…”
-Một bài báo khác, đã giới thiệu trong tiết mục “Sinh họat Tân nhạc trong tuần :”Bông hồng cài áo được sọan thành ca khúc”-“Tập tùy bút Bông hồng cài áo của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh sau khi được giới cải lương biến thành kịch, bây giờ lại được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sọan thành ca khúc. Với tất cả cố gắng ,nhà nhạc sĩ quê quán ở sông Đà(Đà Nẵng đó!) đã tân nhạc hóa “Bông hồng cài áo” rất hay.Ngòai ra còn có cựu thiếu úy họa sĩ Hiếu Đệ trình bày bìa rất chi là “bay bướm và trang nhã” khiến cho “Bông hồng cài áo” xuất hiện trong thị trường Tân nhạc như một cô gái đẹp mặc áo dài xuất hiện giữa một rừng người mặc tòan Mini Jupe”.
-Một bài báo khác, trong bức “Thư cho Vĩnh Điện”, nhạc sĩ P.D. đã ghi “…Phạm Thế Mỹ tổ chức được nhiều đêm hát và đọc thơ ở Sài gòn, Đà lạt, Nha trang rất hay, rất đáng phục! Vì trong lúc này và ở miền này, tổ chức được những đêm ca hát có hứng khởi thật là khó! Nhóm du ca CPS và một số phòng trà cũng muốn gây không khí văn nghẹ lắm nhưng hình như họ vẫn bị nằm trong khung cảnh snobisme (theo thời), thiếu người trung thực để gây phong trào . Hầu hết là háo danh hay háo tiền mà thôi! Anh yêu một số bài mới của Mỹ, thực thà mà nói, Mỹ vẫn chưa ra khỏi được những cái chung chung (lieux communs) tình tự dân tộc, hay hát với kháng giả. Nhưng với mấy bài như “Rao bán”, “Sài gòn vui không em”, “Tôi phải nói với anh điều này…”…vân vân…Mỹ đã thành công trong một lọai ca mới mà anh gọi là hiện thực (không phải theo quan niệm mác xit đâu), đại khái như những truyền thống Brassens của Pháp, Dylan của Hoa kỳ…”
-Trích báo Tinh Hoa số 26, tác giả K.D. ghi:
“…Hơn 500 thính giả chọn lọc, lúc lịm đi,lịm đi vào giấc mơ của tuổi thơ không mẹ,lúc dào rạt tin yêu, lúc ầm ầm phẫn nộ như thác đổ trên ngàn ,để rồi tất cả đều tan biến đi nhường chỗ cho sự bao dung, độ lượng …120 phút trình diễn, kháng giả như đang được sống hòa bình trong không khí chiến tranh…Không than óan ,nức nở,tuyệt vọng,van xin…,Không ủy mị,khắc khỏai dày vò tâm thức như Tâm ca…Đầy tin yêu, phấn đấu(Bi,Trí,Dũng). Đó là sự thành công đêm Thơ Nhạc của Phạm Thế Mỹ và Đăng Lan.
-Và cũng xin trích báo Tin Sáng số 368,năm 1970, một đọan trong tiết mục “Nhật ký của một nữ sinh viên “(đó là tôi,Trần Tuyết Hoa mà hồi đó viết, không dám để tên thật sau 2 lần ở tù vì đấu tranh sinh viên đòi Hòa bình:
…”Điệp khúc cuối cùng kết thúc trường ca “Con đường trước mặt” năm đó của hơn 100 sinh viên Vạn Hạnh “ đồng hát cho quê hương” dưới sự hướng dẫn của tác giả, người nhạc sĩ tài hoa nhưng rất nghèo,điệp khúc đó đã nói lên được điều ước mơ của chúng tôi, đã hé mở cho chúng tôi nhìn thấy một chân trời huyền thọai của quê hương mà bất cứ con tim Việt Nam nào dù đang run rẩy, hụp lặn trong khói lửa ở đây hay đang yên thân ở một chân trời xa lạ,bình thản nào cũng cùng nhau cảm thấy rộn ràng, hồi hộp, thấp thỏm chờ mong từng phút, từng giây…ngày Hòa bình trở về với Dân tộc…”

Tiểu sử và họat động sáng tác

Và bây giờ là cuộc nói chuyện của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ với báo Dân tiến Tân nhạc ngày 23/8/1967 về tiểu sử của mình:
-Tiểu sử : “…Phạm Thế Mỹ sinh năm 1932,tại Qui nhơn (Trung Việt),xứ sở của rừng dừa mà anh đã có lần nhắc đến trong nhạc phẩm “Những ngày xưa thân ái’:…”Uống nứơc dừa hay nứơc mắt quê hương”. Ra đời trong một gia đình có truyền thống về văn nghệ (em của nhà văn Phạm văn Ký, người được giải thưởng Văn chương Hàn lâm viện Pháp với cuốn “Perdre La demeure ) và nhà thơ Phạm Hổ). Phạm Thế Mỹ đã được sự dìu dắt của các anh dể phát triển tài năng của mình.Lúc nhỏ,anh học lý thuyết nhạc với sư huynh Yersin ở trường Gagelin (Quy nhơn). Sau đó,anh học hòa âm với ông Nguyễn Phụng và bà Nguyễn khắc Cung tại trường Quốc gia âm nhạc Sài gòn.Anh còn qua một thời kỳ dài để tự đọc, học thêm về hòa âm (Harmonie),đối âm (contrepoint), tòng âm(Fugue),sáng tác nhạc (Composition), kết nhạc pháp (Orchestration) (theo danh từ âm nhạc của Tống ngọc Hạp), của các tác giả Catel, Dupré, Dubois, Durand, Dureau,H.Berilioz, Norberi Dufourcq. Đặc biệt là Luận án Tiến sĩ nhạc học của Trần văn Khê ở Pháp,đã giúp rất nhiều khi anh sáng tác những nhạc phẩm mang màu sắc dân tộc nói riêng và Á đông nói chung.
Trước đây, anh là giáo sư âm nhạc tại các trường trung học Nguyễn Công Trứ, Tây Hồ, Bồ Đề,Kỷ thuật Đà nẵng .Hiện nay anh là Trưởng Phòng Văn nghệ Viện Đại học Vạn Hạnh và là giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Mạc Đỉnh Chi,Thanh niên phụng sự xã hội Sài gòn.
-Thời gian sáng tác : Phạm Thế Mỹ bắt đầu từ năm 14 tuổi.Lúc bấy giờ anh đã viết nhiều ca khúc nhỏ mặc dù chưa hiểu gì về luật “Cân phương” (Carrure) hay công dụng của những “Giai kết”(Cadences). Được sự ngợi khen và khuyến khích của nhũng người thân, anh càng gia công học hỏi thêm phần nhạc lý, sáng tác và nghiên cứu để tìm tòi những ưu điểm,những nét đặc sắc của các nhạc sĩ nổi tiếng đương thời như Đặng Thế Phong, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy, Nguyễn Xuân Khóat, Nguyễn Mỹ Ca…
Từ năm 20 tuổi trở về sau, anh bắt đầu sáng tác một cách vững vàng và đều đặn hơn.Những nhạc phẩm của anh ,kể đến nay gồm có:
-Nhạc bản: Đáng kể nhất là các tác phẩm “ Ngỏ chiều”,”Nắng lên xóm nghèo”, Nhạc buồn đêm sao”,”Màu tím hoa sim”,”Những ngày xưa thân ái”,”Người yêu và con chim sâu nhỏ”,”Đưa em về quê hương” và 2 nhạc bản mới nhất :”Bông hồng cài áo”,” Bóng mát” (do nhà xuất bản Hát cho quê hương ấn hành).
-Vũ kịch: “Kim Trọng Thúy Kiều”(1962-66)
-Tiểu ca kịch :”Hoa bướm và thiếu nữ” (1960),”Nước mắt người yêu” (1961)
-Nhạc kịch : “Sắc lụa Trữ La”(1958-1960)
Trường ca : “Lửa thiêng “(1964),”Hàn giang dậy sóng(1960,”Con đường trứơc mặt”(1967)
Những Vũ kịch,Tiểu ca kịch, Nhạc kịch,cũng như Trường ca, …Trường ca “Con đường trước mặt “ mới sáng tác của Phạm Thế Mỹ đã được trình diễn trên Đài phát thanh Huế,trên các sân khấu miền Trung ,mới đây ở Sài gòn tại rạp Thống nhất ,Trần hưng Đạo.
-Khuynh hướng và quan niệm sáng tác:
Phạm Thế Mỹ chủ trương sáng tác không chạy theo thị hiếu quần chúng .Anh nghĩ rằng nhiệm vụ nhạc sĩ (cũng như tất cả các người sáng tác thuộc các ngành khác trong lĩnh vực Văn hóa là phải hướng dẫn quần chúng trên phương diện thưởng thức. Anh có khuynh hướng sáng tác nghiêng về Tình yêu quê hương , tình yêu dân tộc,ca ngợi tình người và ca ngợi cuộc sống thanh bình.
-Nhận định về hiện tình Tân nhạc Việt Nam: Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ cho biết:
-Nhạc phẩm rất dồi dào về lượng nhưng nghèo nàn về phẩm.
-Phần đông giới Tân nhạc chúng tôi,dù là Nhà xuất bản,nhạc sĩ,hay ca sĩ đều nghĩ đến vấn đề thương mại trước hơn vấn đề nghệ thuật. Đó là sự thực chua xót không thể tránh được trong hòan cảnh hiện tại mà chúng tôi hy vọng tương lai sẽ khá hơn. Rất đồng ý với một số nhận định của nhạc sĩ Hòang Nguyên về hiện tình Tân nhạc Việt Nam( Thuyết trình trong Đại hội văn nghệ tòan quân).
-Dự định tương lai:
-Với tư cách Trưởng Đòan văn nghệ sinh viên Đại học Vạn Hạnh, anh có dự định đưa đòan đi lưu diễn tại các đại học bạn (Sài gòn ,Cần thơ, Huế, Đà lạtđể gây tình thân hữu, gây không khí trình diễn văn nghệ Dân tộc và hùng mạnh trong giới sinh viên.
-Với tư cách người chăm nom cho nhà xuất bản Hát cho quê hương, ý định của anh là tuyển chọn để ấn hành nhạc phẩm hợp với đường lối anh đã trình bày ở trên.
-Nhà xuất bản do anh chăm nom, chủ trương tìm và giới thiệu những người viết và hát mới với quần chúng thưởng thức.
-Hợp tác với một số nghệ sĩ bạn để dựng những vở nhạc kịch mà anh đã viết trước đây tại các sân khấu Sài Gòn,”

Người thể hiện tâm đắc giai đọan 1974-75…của tác giả

Đó là chị Diệu Lý, bây giờ là người vợ còn rất trẻ của anh hiện nay, là một cô giáo dạy Văn ở trung học mà trứơc đây đã từng là giọng ca nữ một thời sát cánh anh trong các buổi trình diễn Văn nghệ Sinh viên ở Đại học Vạn Hạnh và các trường bạn…Là thế hệ sau Đăng Lan, Mai Hoa, Phi Huệ, Miên Đức Thắng, Nguyễn Xuân An…Diệu Lý là giọng ca xô lô nữ rất trẻ mà Phạm Thế Mỹ đã chọn để hát chung với anh hay với Hồ Thanh Hải, một giọng xô lô nam truyền cảm ,cùng thế hệ với Diệu Lý khỏang 1974 cho đến sau 75.
Cách đây vài năm, khi anh Mỹ bị một cơn tai biến, sức khỏe yếu dần, nên không còn viết và trình diễn được nữa nhưng tác phẩm anh từ 74 đến sau 75, có một số trường ca cũng được hoang nghênh nồng nhiệt, đó là :
-“Những giòng sông anh em”(1974)
-“Những trang sử Việt Nam” Diệu Lý hát cùng Thanh Hải.
-Sau 1975:
-“Con đường thế kỷ”.
- “Gió Củ chi”
-“ Thành phố trăng tròn”…
Từ trước 1975, dòng nhạc Phạm Thế Mỹ mang nội dung Hòa bình ,Đạo pháp,Dân tộc, về sau,nhạc của anh cũng hướng về “Tình người”,cụ thể là tình thương các em bé bất hạnh ở nông thôn hay trong các trại tạm cư ,chạy bom đạn từ thôn quê lên thành phố…Với giấc mơ một Việt Nam Hòa bình,Độc lập và Thống nhất đất nước.

Tiếng hát loài chim chiến tranh

Khỏang cuối năm 1967, trong một đêm trình diễn của đòan Văn nghệ sinh viên đại học Vạn Hạnh tại rạp Thống nhất, sau các tiết mục hợp xướng, đơn ca, nhạc kịch…một tiếc mục bất ngờ làm cả ngàn khán giả sững sốt, đó là nhạc cảnh “Lời nguyện pháp trường” mà tác giả Phạm Thế Mỹ đã giàn dựng rất công phu với Nguyễn Xuân An vai chính một tử tù chính trị bị đưa ra pháp trường xử bắn…An mặc bộ bà ba đen và một băng vải đen bịt mắt ,quỳ gối và bị trói thúc ké vào một trụ cột, chờ thi hành án.Hai sĩ quan Cộng hòa cầm súng chỉa vào An và tuyên bố cho anh nói lời cuối cùng.An ngữa mặt lên trời, cất cao tiếng hát “Lời nguyện pháp trường” của Phạm Thế Mỹ. Cả hội trường im phắt, nín thở và trào nước mắt theo từng tiếng hát, hơi thở của An:
“Chắc trời còn xanh lắm,
Cho tôi quỳ xuống đây
Tiếng ru nào trót dậy
Chắc buồn mà không hay…

Tôi tay đầy vòng buộc
Thân che lòng cát này
Quê hương sầu tôi đấy
Mắt nào nhìn lại đây?

Hỡi người anh phía trước,
Hỡi người bạn sau lưng
Hỡi từng viên đạn nhỏ
Cho tôi ly rượu mừng.

Mùa xuân nào lại đến,
Lời ca nào lại bay ,
Tiếng ru nào của mẹ,
Mắt lệ nào của em?

Cho tôi xin mở mắt
Nhìn tay người đang run,
Chiến công nào cao lớn
Hơn mạng người đau thương?

Lạy trời!
Lạy trời tôi đừng biết,
Xin cho tôi đừng biết,
Tôi là người như anh,
Tôi chết vì tay anh!
Chết!Chết vì chiến tranh!...
Đùng! Đùng! Đùng! Tiếng súng bùng nổ và An, người tử tù gục xuống…Màn từ từ khép lại theo tiếng nhạc kết thúc tái tê của một “Lời nguyện pháp trường” như để tiễn đưa linh hồn người tử tù chính trị, người thanh niên Việt Nam yêu nước đến giây phút cuối đời!...
Cả hội trường chết lặng như một phút mặc niệm! rồi mọi người bừng lên, đứng phắt lên vỗ tay vang dậy rần rần…Hội trường như muốn vỡ tung ra, khán giả không chịu ra về, nhiều người còn muốn nán lại ngậm ngùi, tiếc nuối…
Khi tôi mang gói khăn áo đồ diễn ra về đi ngang qua các bà Má phong trào đang còn đứng lại để nhìn mặt từng đứa chúng tôi mà vừa khen, vừa khóc… “Chèn ơi! Sao tụi nó làm cái kịch gì mà giống anh Trỗi quá hà!” Tôi giựt mình vội can ngăn các Má và dòm chừng coi có công an chìm nghe không. “Trời ơi! Má ơi ! Má đừng nói vậy lỡ công an nghe được là chết hết tụi con đó! “ Bà già vừa ôm tôi vừa mếu máo: “Chớ ai biểu tụi bay làm …giống… quá chi!...” Chúng tôi vừa mệt,vừa lo sợ mà cũng mừng vì nhạc cảnh này diễn được trót lọt, không bị cảnh sát ngăn lại và đêm diễn thành công ngòai dự tưởng. Sinh viên thì rất sung sướng, cho rằng nhạc sĩ họ Phạm này đã chơi một trái “ bom văn nghệ” nỗ chậm trên sân khấu mà lọt lưới kiểm duyệt thì thật là tuyệt chiêu, dễ nể!...Nhưng đến Tết Mậu Thân thì hầu hết các sinh viên đầu đàn trong các chương trình Văn nghệ kiểu này đều bị mời vô tù hết. Khi bước lên chiếc “xe cây bịt bùng”, tôi gặp đầy đủ ,cả anh Trương Thìn,Trưởng Đòan Văn nghệ Tổng hội SV Sài gòn với Đêm Văn nghệ “Tết Quan Trung “cực kỳ độc đáo với 200 ngàn khán gỉa ngồi bệt xuống đất giữa trời trong khuông viên trường Quốc gia Hành chánh cũ,(nay là Trường Đảng)…Còn anh Mỹ phải chạy về Đà Nẵng trốn tránh một thời gian.
Niên khóa 1969-1970 nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ lại về làm giáo sư âm nhạc chính thức và Trưởng phòng Văn-Mỹ-Nghệ của Viện, đồng thời cũng là Trưởng Đòan Văn nghệ của Viện Đại học Vạn Hạnh.
Các lớp Quốc nhạc thì do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba và nhạc sĩ Vĩnh Phan phụ trách, lớp hòa âm và sáng tácdo Phạm Thế Mỹ, anh đã đào tạo các nhạc sĩ trẻ :Miên Đức Thắng, Nguyễn văn Sanh, Nguyễn Đức Huy,Nguyễn Khôi,Lê văn Huê,Vũ Đức Sao Biển,Nguyễn Xuân An…
Đòan Văn nghệ ĐH Vạn Hạnh đã được thành lập và chính thức ra mắt ngày 7-1-1968 với mục đích căn bản là sưu tầm, sáng tác ,trình diễn văn nghệ Phật giáo và Dân tộc, lành mạnh hóa tinh thần của sinh viên và quần chúng.
Tôn chỉ của Đòan là:
1-Ca ngợi Đức tin và Tình thương.
2-Vươn khởi về một tương lai tươi sáng tự do.
3-Nói lên khát vọng hòa bình trong tâm hồn người Việt Nam qua
mấy mươi năm khói lửa.
4-Chống lại khuynh hướng văn nghệ ru ngủ…
Từ đó Đòan Văn nghệ SV Vạn Hạnh đã trình diễn thành công không chỉ ở Gài gòn mà cả các cuộc lưu diễn ở các đại học bạn các tỉnh miền Trung và Đà lạt…Báo chí Sài gòn hồi đó ca ngợi nhiều về sinh họat của Đoàn như có ý kích động sinh viên dấy lên một phong trào,một sức sống mới lành mạnh trong tuổi trẻ …Nhà báo Hòang Thái Nguyên (Nguyễn Hữu Thái) đưa lên báo Tin Sáng 1966 trích bài”Lời lên tiếng “trong tập thơ nhạc “Hòa bình ơi hãy đến”của Phạm Thế Mỹ:”Tuổi trẻ không ngồi để ước mơ mà phải lấy sức mạnh của chính mình để biến ước mơ thành sự thật…Với tôi ,sức mạnh đó là con tim, là tiếng hát…Tiếng hát của tổ tiên xưa, tiếng hát bất khuất, tiếng hát mặt trời đang lên.
Hỡi những người Việt Nam đau khổ,
Hỡi tuổi trẻ Việt Nam anh hùng
Hãy cất cao tiếng hát:
Tiếng hát Việt Nam hôm nay,
Tiếng hát Việt Nam mai sau…
Còn tiếng hát hôm qua thì Phạm Thế Mỹ đã làm cho chúng tôi cũng xót xa, cay đắng theo với bài “Những ngày xưa thân ái”của anh đã phổ thơ Phạm Hổ:

Những ngày xưa thân ái,
Hắn đã quên rồi
Riêng tôi,tôi nhớ
Đường làng mênh mông cỏ lúa,
Sương mai khép kín vệ đường,
Hai đứa tôi sách vở cặp chung’
Áo quần nhàu giấc ngủ,
Tung tăng bước nhẹ chân trần,
Gói cơm mo, mẹ bắt xách tùng tơn,
Trong túi, hộp diêm nhốt dế.
Những ngày xưa thân ái thế
Không đem chung hai đứa một ngày mai.
Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay,
Tôi buồn, tôi giận,
Hôm nay gặp hắn,
Tôi bắn hắn rồi!
Những ngày xưa thân ái!...

Nhung bà mẹ Việt Nam của anh không bao giờ chịu mất con.
…Không! Không thể nào như thế này mãi được…
Anh tuổi trẻ Việt Nam lầm đường kia sẽ về lại với quê hương vì:
Trong khói lửa tan hoang , mẹ vẫn một lòng tin con, một lòng
tin con
Rồi con sẽ lớn lên và màu da con sẽ vàng,
Con sẽ đến trường học tiếng Việt Nam…
Để thấy quê hương bài ca dài đấu tranh…
Con sẽ lớn lên để trở thành người dân có ruộng, có vườn,có tổ tiên,
…Dòng máu này là của Quan Trung,
Dòng máu này là của Trưng Vương,
Với ánh sáng Lửa Thiêng của người sáng bước chân đi ngàn lối…
Mảnh đất nầy của quê ta,
Ruộng lúa nầy của dân ta,
Ta không muốn đời ta tối tăm, lầm than bỡi quân bạo tàn …

Giấc mơ Hòa bình

Năm 1970, HTN lại trích một đọan của “Con đường trước mặt”nói lên giấc mơ của một tương lai Việt Nam không còn chiến tranh:

Đường ta đi thênh thang từng bước,buớc,bước, chim bồ câu bay, chim bồ câu bay,
Đường ta đi thênh thang từng bước, bước, bước, chuông chùa
ngân nga, chuông chùa ngân nga.
Đường ta đi diều bay cuối xóm,
Đường ta đi trẻ thơ hát cười,
Đường ta đi người yêu đất mới,
Đường ta đi chim hót reo vui.
Ôi con đường Việt Nam,Ôi con đường Việt Nam!...
Hai mươi lăm triệu trái tim ta
Sống yên vui, yên vui một nhà…
Cùng tâm trạng khát khao hòa bình ấy, Anh Lê Trương đã ghi lại cảm nghĩ mình trên tạp chí Sinh viên Xuân 1969 rằng: “Trường ca Con đường trước mặt do Ban hợp xướng của Đòan văn nghệ sinh viên ĐH Vạn Hạnh trình diễn 1968 tại rạp Thống nhất đã thu được cảm tình đặc biệt của mọi giới đồng bào thủ đô-100 người trên sân khấu là 100 gương mặt biểu tình, hội thảo với những đường nét rắn rỏi điển hình của thế hệ mới, giọng ca nổ ra thành sóng gió trồi dập giưã màu áo quần đỏ rực thân yêu”.
Nhờ những thành công liên tiếp của Đòan như thế nên các sinh viên trong Đòan như Vũ Đức Sao Biển, Miên Đức Thắng, Nguyễn Xuân An…đã phấn khởi sáng tác hăng say…Và các giọng ca trẻ do Phạm Thế Mỹ đào tạo cũng đã sát cánh cùng các đàn anh đàn chị như Hồ Thanh Hải,(sau này hát Trịnh Công Sơn rất nỗi tiếng vào những năm 80),là sinh viên ĐH Minh Đức nhưng Hải lại thích sinh họat trong đoàn Vạn Hạnh và được anh Mỹ chăm sóc tận tình.
Phi Huệ, giọng ca nữ trầm ấm,là Trưởng đòan văn nghệ sv Luật khoa vẫn cùng sinh họat trong Đòan Vạn Hạnh, vì cũng là học trò anh Mỹ từ trung học Mạc Đĩnh Chi.
Và Diệu Lý, giọng ca trẻ đặc biệt và là vợ của anh,cho đến nay vẫn còn phong độ.
Năm 1972, báo Hòa bình lại đưa tin về băng nhạc “Thương quá Việt Nam”:
…”Mãi tới hôm nay,những gì chờ đợi, đã đến, đến bằng sự hiện hữu của 1 tiếng hát,2 tiếng và nhiều tiếng hát , Miên Đức Thắng,Xuân An, hiệp cùng với Lệ Thu,Thanh Lan, Trúc Mai, Đăng Lan đồng cất tiếng ngợi ca tha thiết, bắt nguồn từ trái tim thức dậy thắp sáng Việt Nam: Anh Việt Thu, Phạm Thế Mỹ, Trịnh công Sơn…đã tạo thành một chuỗi âm thanh dài dài không dứt.”Thương quá Việt Nam “ với 18 ca khúc ,có thể coi đó như một kẻ đồng hành tự tình thân yêu nhất trên bước đường gian nan trước mặt mà chúng ta sẽ đi tới….Băng nhạc sẽ mang đến cho chúng ta sức sống, lòng cương quyết, chí phấn đấu và ước vọng mai sau trong tình tự quê hương . “Thương quá Việt Nam đến với chúng ta trong lúc các phòng trà đóng cửa, ảnh hưởng tình hình thời sự, sinh họat văn nghệ tân nhạc có phần sa sút…Đại nhạc hội không tổ chức được, các nhạc sĩ sáng tác không làm gì hơn ngòai một vài người xoay qua viết nhạc “chiến dịch” cho các đài truyền thanh, truyền hình….”

Khơi dậy Lửa Thiêng trong Tình tự dân tộc

Cho đến gần ngày Giải phóng, báo Điện Tín, 21/1/1975 lại đưa một tin lớn: “Sinh viên Vạn Hạnh khơi dậy “Lửa Thiêng” soi sáng hòa giải, tiến đến hòa bình “ trong Đêm văn nghệ chào mừng 25 năm thành lập Văn khoa của Viện Đại học…cùng với lời phát biểu của Thượng Tọa Thích Minh Châu,Viện Trưởng Vìện Đại học Vạn Hạnh: “Tình tự dân tộc là mẫu số chung để chấm dứt 25 năm chiến tranh…Chừng nào mọi người chịu quay về với tình tự dân tộc của mình, chiến tranh mới có cơ duyên chấm dứt “ Và Thượng tọa huấn thị sinh viên đại học Vạn Hạnh hãy đảm nhận công tác khơi dậy cái tình tự dân tộc đó trong lòng người. Rồi Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Khoa Trưởng Khoa Văn cũng đã vạch rõ tai họa hủy diệt của chiến tranh…và khẳng định rằng sinh viên Văn khoa có cơ hội đào sâu vào nền Văn hóa dân tộc,hơn ai hết, là những người có đầy đủ khả năng để thực hiện ý niệm hòa hợp,hòa giải dân tộc.
Có phải nhờ được các bậc tôn sư khai sáng “huệ nhãn” cho nên Đòan Văn nghệ SV Vạn Hạnh đã kết hợpvới Đòan Văn nghệ Sinh viên Sài gòn tổ chức Đêm nhạc “Hát lên đi quê hương yêu dấu” vào tháng 1/1975 với 5000 SV đủ mọi phân khoa đại học Sài gòn tham dự đã cùng hát lên những tiếng hát đấu tranh vang dậy, hát cả bài “Tình đồng chí” để nhớ thời Thanh niên Tiền phong lên đường chống Pháp…Và một lần nữa hợp tấu “Lửa Thiêng” bùng lên như những bó đuốc tràn lên như sóng bể,sáng rực hàng hàng,lớp lớp những con tim tràn đầy nhiệt huyết xua ngọn lửa thành những ngọn trào đốt cháy những mầm mống thù hận,phủ hào quang lên những con đường khai phá giấc mơ hòa giải tình người để Hòa bình lồng lộng tỏa ra giữa một trời bình minh rạng rỡ thắm thiết tình nghĩa đồng bào…
Chưa bao giờ người viết được tham dự một buổi văn nghệ trình diễn với nhiều ý nghĩa trong suốt mấy năm qua cho nên thấy dường như một vận hội mới cho dân tộc từ những người trẻ mang lại, từ những ý thức mới hồi sinh của những người già đã lóe lên để rồi cất cao và bừng cháy…Thượng tọa Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, linh hồn cao ngất của vận động hòa giải lịch sử hiện nay, dường như cũng đã cảm thấy phấn khởi vô cùng nên đã ngồi lại xem cho đến phút chót và thỉnh thỏang gật đầu tán thưởng kèm theo những nụ cười đạo hạnh trên môi.”(HVT)
-Hướng nhạc về các em bé thôn quê (theo nhà báo PN):
Năm 1970,Đòan văn nghệ SV Vạn Hạnh trình diễn để cứu trợ tại rạp Thống Nhất. Tập nhạc mới nhất của Phạm Thế Mỹ là “Trái tim Việt Nam”,một giai phẩm đặc biệt của Đối Diện và “Những bài ca xanh” để hát sinh họat với các em bé thôn quê…Anh vẫn đăng thơ ở các tạp chí Đối Diện và Mai. Anh lao vào công việc cứu trợ ở trại tạm cư Bình Dương 2 cũng như thấy cảnh đồng bào ở tuyến đầu kéo về tản cư ở Đà Nẵng …Anh cho biết có một cảm xúc mới mẻ đã đến trong nguồn cảm hứng của anh…Từ trước tới giờ làm nhạc ,hát trong thành phố với sinh viên, trí thức,tôi cứ tưởng như vậy là tuyệt đỉnh rồi .Bây giờ, qua những ngày sống ở trại tạm cư, tôi mới thấy phải rời bỏ các thành phố để hướng đến các em bé ở nông thôn.Có thể nói…ở đây các em không thiếu thực phẩm mà chỉ thiếu tinh thần .Tập nhạc “Những bài ca xanh” đã ra đời trong chiều hướng đó. Nghe các em bé hát nhạc của mình giữa sân trại trời mới nắng lên còn sướng hơn nghe một anh sinh viên hát trong một giảng đường nào đó . Tôi cũng đã đổi sang một kỷ thuật giản dị và lời bình dân, đơn sơ cho gần gủi thích hợp với đồng baò mình….Với một giọng hết sức nhiệt thành, anh Phạm Thế Mỹ cho rằng đi làm việc xã hội, cứu trợ là giúp cho chính mình, lợi cho mình chứ không phải chỉ giúp cho đồng bào .Có đến tận nơi, nhìn tận mắt mới “hưởng thụ” được những hình ảnh sống động nhất của tình thương và niềm tin…Ước vọng của anh là thống nhất dân tộc và mong mỏi thương yêu, tiến bộ chứ không phục vụ cho một phe, phía nào hết”.
Ngọn Lửa Thiêng” trong lòng dân tộc đã được Phạm Thế Mỹ và Đòan Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh và Sài gòn khơi dậy phần nào trong lòng khán giả thủ đô và các đại học bạn ở miền Trung…để mong biến ước mơ một Việt Nam Hòa bình thành sự thật trong một ngày không xa.

Trần Tuyết Hoa (Chuyển luân)
»»  Đọc tiếp

22 tháng 6, 2010

Thư chúc mừng nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

Đăng ngày Thứ Ba, tháng 6 22, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments

THƯ CHÚC MỪNG



Nhân ngày  Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6), tôi xin thay mặt Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam và Ban biên tập trang Web “hophamvietnam.org” xin gửi đến các phóng viên các nhà báo Việt Nam – những người đang dũng cảm, tận tụy đăng tải những thông tin nhiều mặt của xã hội đương thời đặc biệt là đã đi đầu trong việc chống tiêu cực làm cho xã hội ta ngày một tốt đẹp hơn – những lời chúc mừng tốt đẹp nhất: chúc các phóng viên, Nhà Báo có sức khỏe dồi dào thành đạt trong sự nghiệp cao cả của mình.
Nhân dịp này chúng tôi cũng xin chức mừng các cộng tác viên (các nhà báo nghiệp dư) của  dòng họ Pham chúng ta – những người trong năm qua đã tích cực gửi bài cho trang web và cho Bản tin nội tộc – Chúc các bạn khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc. Mong sự hợp tác tích cực hơn nữa để trang web và bản tin có nhiều nội dung phong phú phục vụ tốt hơn cho dòng họ chúng ta.

Hà Nội, 21/6/2010
TM.BLL họ Phạm Việt Nam
PGS.TS Phạm Đạo
Trưởng BLL ho Phạm Việt Nam
Tổng Biên tập website “hophamvietnam.org”
»»  Đọc tiếp

21 tháng 6, 2010

Một võ sư nổi tiếng họ Phạm

Đăng ngày Thứ Hai, tháng 6 21, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Lão võ sư Phạm Đình Trọng: Một thời ngang dọc
Ngày đăng 21:28 19-05-2009 (10505 lượt xem)

Lão võ sư năm nay bước vào tuổi 85. Ông sinh tại làng Thanh Hà, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 13 tuổi, ông thọ giáo thầy Đoàn Phong, một cao thủ Tây Sơn quyền. Năm 18 tuổi ông học võ công Bắc phái với võ sư Diệp Bửu Thành. Khi trở thành một tay đấm có tên tuổi khắp võ đài miền Trung, ông còn bái sư Diệp Trường Phát, chưởng môn phái Bình Định - An Thái. Đương thời ông được vang danh với tuyệt chiêu “Song long đoạt mệnh cước”. ..
Bí mật của một dòng họ
Vốn dòng dõi nhà Lê, tổ phụ ông - chí sĩ Lê Quang tham gia phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh. Khi phong trào bị đàn áp, cụ Lê phải bỏ xứ chạy vào Nha Trang lánh nạn. Để không bị truy lùng, ông thay tên đổi họ, sống ẩn dật với nghề phục dược. Từ đó, hậu duệ nhà Lê bất đắc dĩ phải mang họ Phạm.
Sinh ra trong gia đình làm thuốc, từ nhỏ, cậu bé Trọng đã biết theo ông lên rừng tìm cây thuốc. Chính những lúc này, cậu được ông khai tâm lòng yêu nước, truyền thống bất khuất của Lê Lai, Lê Lợi, những người con đất Lam Kinh. Rồi từ lúc nào, cậu đâm mê những chuyến đi rừng, để nghe ông kể chuyện đi làm cách mạng và truyền lại dòng võ gia truyền nhà họ Lê.
Tuổi thơ của Phạm Đình Trọng là những tháng ngày trui rèn. Vừa xong bậc tiểu học, cậu được gởi đến học chữ Nho với cụ tú Đoàn Quốc Cự. Cậu còn phải học y thuật với thầy Bảy Giỏi, một thầy lang nổi tiếng vùng Ninh Hòa. Đã thế, hằng đêm cậu cuốc bộ hơn 6 cây số để luyện quyền với thầy Đoàn Phong. Nhờ vậy, năm 18 tuổi, chàng trai Phạm Đình Trọng được tiếng bút pháp như rồng bay phượng múa, lại mát tay phục dược, võ công cao cường.
Vang danh trên võ đài
Để chứng nghiệm thành quả khổ luyện, cậu ra tận đất võ Bình Định để có cơ hội cọ xát. Trận đấu đầu đời, Trọng đụng phải Bửu Long, đệ tử tâm đắc của Diệp Bửu Thành. Vào trận, Long tự tin tấn công áp đảo. Không hổ danh Bắc phái Sơn Đông, Long thiện nghệ cước pháp. Đặc biệt anh có ngọn “Lôi công cước” nặng như búa tạ. Biết đụng phải kình địch, Trọng áp sát, đeo bám quyết liệt khiến đối phương mất chủ động, đòn chân bị vô hiệu hóa. Tuy lép vế trước đối thủ về thể hình lẫn thể lực, bù lại với đấu pháp khôn ngoan, Trọng luôn hóa giải hiệu quả sở trường của Bửu Long. Đánh suốt 3 hiệp bất phân thắng bại, tưởng đã cầm hòa. Trước khi kẻng báo dứt hiệp vang lên, bất ngờ Trọng táo bạo tung đòn quyết định “Song long đoạt mệnh cước” hất tung đối thủ xuống đài. Thắng oanh liệt, anh lọt vào mắt xanh Diệp Bửu Thành.
Thấy ở Trọng chân tướng võ gia, thầy Bửu Thành không tiếc truyền bí kíp bản môn.
Từ đó, Bửu Long và Đình Trọng là “nhị hổ tướng” trấn môn của võ phái, khiến các tay đấm kiêng dè

Võ công Bắc phái nổi tiếng cước pháp, sở trường đòn dài, phương thức tấn công triển khai trên diện rộng. Nhiều bài bản Sơn Đông dũng mãnh, đẹp mắt như Mãnh hổ xuất sơn, Nhị hổ qui sơn, Mãnh long quá hải, Ngũ long kiếm pháp, Trảm mã đao, Đồ long đao, Phong ma kích…

Thấy được ở Trọng chân tướng võ gia, thầy Bửu Thành không tiếc công truyền hết bí kíp bản môn. Cũng từ đó, Bửu Long và Đình Trọng là “nhị hổ tướng” trấn môn của võ phái, khiến các tay đấm trẻ đất võ phải kiêng dè.
Suốt thời thanh niên, cái tên Phạm Đình Trọng nổi lên khắp võ đài Phan Thiết, Nha Trang, Phú Yên đến miệt “tứ Quảng” (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình). Cho đến năm 22 tuổi, Trọng chưa một lần nếm mùi thất bại. Những tưởng sở hữu danh hiệu “bất khả chiến bại”, không ngờ một lần đến An Thái, Trọng trở thành bại tướng dưới tay Diệp Bảo Sanh, con trai Diệp Trường Phát. Sinh thời, tên tuổi Diệp sư phụ danh trấn thiên hạ. Ông kết hợp nhiều dòng võ Nam quyền, Tây Sơn và cả võ Chăm, võ Miến Điện, hình thành quyền pháp vừa độc đáo vừa ác liệt.

Lão võ sư Phạm Đình Trọng rất cường tráng ở tuổi 85... - Ảnh: P.T(ảnh bên)

Quyền An Thái đặt trên nền tảng ngũ bộ: long, hổ, miêu, hầu và xà quyền. Long, Hổ thiên cương mãnh chủ công. Hầu quyền biến hóa, bộ pháp linh hoạt, thân thủ tốc độ, hóa giải đòn công, phá sức địch. Miêu, Xà quyền chủ nhu, phòng thủ kín kẽ, phản công chớp nhoáng… Tính đa dạng của võ Bình Định - An Thái làm đối phương không dễ “bắt bài”, khai thác nhược điểm. Thấy được tính biến hóa tinh diệu của quyền An Thái, Trọng nhất quyết bái sư thầy Diệp. Vốn ham học hỏi, luôn tìm tòi cái mới lạ, Phạm Đình Trọng còn chơi quyền Anh và chuyển sang thi đấu môn võ mới mẻ này cho đến ngày treo găng.
Làm thầy trên đất cao nguyên
Cho đến năm 1950, ông lên Đà Lạt mở võ đường, chính thức truyền bá sở học. Nói về võ phái của mình, ông cho biết: “Đất Lam Kinh xưa có một dòng võ xuất xứ từ nhà chùa có tên gọi là “Sa môn”. Theo thời gian, môn võ này lưu truyền cho những môn đồ tục gia. Sau này, theo sở đắc của những cao đồ có tính cách tân, Sa môn phân hóa 4 chi là Long, Hổ, Phong, Vân. Chi thứ nhất là “Sa long cương” của võ sư Trương Thanh Đăng. Chi thứ hai là “Sa hổ môn” cũng từ một nhà chùa ở Sóc Trăng (sau này có truyền nhân là võ sư Hổ Bạch Ân). Chi thứ ba ở Châu Đốc (An Giang). Chi thứ tư kết hợp Long quyền thành “Sa vân long”. Tới thầy Đoàn Phong là chưởng môn đời thứ 39”. Hiện lão võ sư Phạm Đình Trọng là chưởng môn đời thứ 41.
Năm 1971, võ sư Phạm Đình Trọng gia nhập Tổng cục Quyền thuật và Tổng hội Võ học Việt Nam. Từ năm 1993, ông tham gia Ban chấp hành Hội võ cổ truyền tỉnh Lâm Đồng. Ngoài nghề võ, người ta còn biết tiếng “thầy Sáu Trọng”, một lương y cao tay hết dạ vì y đức, sẵn lòng cứu người làm việc nghĩa. Với vốn Hán học uyên thâm, ông bỏ công nghiên cứu, biên dịch nhiều tư liệu cổ có giá trị cả võ học lẫn y học. Việc làm của ông không ngoài mục đích bảo tồn và lưu truyền di sản quý báu của tiền nhân cho thế hệ mai sau.
Lê Ngọc
Thanh niên
»»  Đọc tiếp

17 tháng 6, 2010

PHẠM BẰNG - Nghệ sĩ bất đắc dĩ

Đăng ngày Thứ Năm, tháng 6 17, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Phạm Bằng: Nghệ sĩ... bất đắc dĩ

Muốn tìm NSƯT Phạm Bằng không khó, cứ rẽ vào hàng bánh trôi Tàu của ông ở phố Hàng Giày, Hà Nội, thể nào cũng gặp. Nhưng bắt đầu câu chuyện với ông thì ngược lại, chẳng dễ chút nào.

Nghệ sĩ Phạm Bằng(ảnh bên)

Khác với sự xuê xoa, dễ tính, hơi khờ khạo đậm chất hài hước trên sân khấu hay trong các tiểu phẩm truyền hình, Phạm Bằng ngoài đời khá dè dặt, thận trọng và ít lời. Nguyên do có một phần khởi nguồn từ quá khứ…
Không bao giờ nghĩ sẽ theo nghề diễn
Gặp nghệ sĩ Phạm Bằng đúng khi Hà Nội mưa phùn. Ngõ nhỏ trống trải bởi cửa hàng bánh trôi Tàu chưa mở. Từ chân bậc thang phủ rêu xòa tán cây lê-ki-ma (trứng gà) khẳng khiu mà lúc lỉu quả, mở chiếc cổng sắt gỉ sét nghe thanh thoát tiếng chuông gió, bước vào tầng hai “tòa dọc, tòa ngang” thuộc về căn biệt thự Pháp cổ ngập lá xanh của các bồn tiểu cảnh… nghĩa là đã ở trong tư gia nghệ sĩ Phạm Bằng.
Ngồi trò chuyện cùng Phạm Bằng trước Tam tòa Thánh Mẫu bề thế, uy nghi mà mẹ ông để lại, sẽ thấy khác hẳn lúc xem ông diễn hài trên sân khấu hoặc trên màn ảnh ti-vi.
“Mẹ tôi là người nghiêm khắc”, khi nói đến người sinh thành ra mình, nghệ sĩ Phạm Bằng thường nói như vậy. Mẹ ông từng là thương nhân buôn gạo rất lớn. Mỗi lần lấy hàng từ Sài Gòn, bà dùng cả đoàn tàu hỏa để chở ra Bắc. Sau khi ngừng buôn bán, bà lập ra Tam tòa Thánh Mẫu nguy lệ tại gia để an lão, và đó cũng là nơi tụng kinh niệm Phật.
Giờ Tam tòa Thánh Mẫu vẫn được nghệ sĩ Phạm Bằng giữ gìn hết sức nghiêm cẩn. Nhờ vậy, khi gặp một Phạm Bằng giản dị ngồi trầm ngâm trên ghế nhựa sờn ở một góc quán bánh trôi Tàu nằm nơi ngõ nhỏ tôi tối, bùi bụi sẽ thấy vô cùng khác biệt khi nhìn một Phạm Bằng - trang trọng thắp nhang nơi thờ tự của gia đình.
Sự nghiêm khắc của mẹ ảnh hưởng nhiều đến tính cách của ông: một diễn viên chỉ hài trên sân khấu chứ không ngoài đời. Khi biết ông lựa chọn nghề diễn viên cho con đường sống và mưu sinh của mình, mẹ ông dứt khoát không đồng ý.
Bà bảo đó là nghề “xướng ca vô loài”. “Quan niệm đó đúng trong thời đế quốc xưa, diễn viên không phải một nghề, cứ vật vờ được chăng hay chớ, chứ sau năm 1954 thì không còn đúng như vậy”, nghệ sĩ Phạm Bằng chia sẻ.
“Tuy nhiên, bản thân tôi lại không bao giờ nghĩ mình sẽ làm nghề này trong khi ngồi trên ghế nhà trường. Tất cả là do ngoại cảnh tác động”.
Sau những buổi tập, diễn, nghệ sĩ Phạm Bằng trở về quán bánh trôi Tàu nhiều kỷ niệm, nhiều nghĩa tình của vợ chồng ông.
Quán bánh trôi từng là nơi “kiếm cơm” chính của gia đình ông bên cạnh nghề diễn thu nhập túng bấn.
Thời đó, là diễn viên thì ai cũng thế, nghệ sĩ Minh Vượng ngày làm diễn viên, tối thành công nhân ép nhựa, nghệ sĩ Chí Trung trở thành “con buôn” săm xe, bán xe đạp, buôn xe máy cũ, mở cửa hàng buôn đồ điện, đồ cổ… Còn Phạm Bằng thành ông chủ quán bánh trôi Tàu.

Năm 1955, nghệ sĩ Phạm Bằng trở thành sinh viên trường Cao đẳng Giao thông Công chính. Trong quá trình học ở trường, theo lời lôi kéo, rủ rê của bạn bè, nghệ sĩ Phạm Bằng cũng tham gia đóng vài vở kịch “lăng nhăng cho vui” (theo cách nói của ông).
Năm 1956, đang học năm thứ hai trường Cao đẳng Giao thông công chính, Phạm Bằng phải nghỉ học. Ông rời trường trong hoàn cảnh hết sức khó khăn: gia đình của ông thuộc diện tư sản cần cải tạo.
Năm 1959, nghệ sĩ Phạm Bằng tham gia đoàn kịch nghiệp dư của nhà thơ Hoàng Cầm, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Đoàn kịch định dựng vở “Vũ Như Tô” nhưng không thành.
Cũng trong năm đó, Nhà nước tuyển sinh cho đoàn văn công Hà Nội, đồng thời, mở trường Đại học Sân khấu khóa I. Phạm Bằng được tuyển cả hai nơi. Khác với một số người bạn của mình trở thành sinh viên trường Sân khấu, Phạm Bằng lựa chọn con đường vào đoàn văn công Hà Nội, bởi theo ông: “Vào văn công vừa được học, vừa được diễn, lại vừa có thêm tiền phụ giúp gia đình trong khi vào trường Sân khấu phải trả tiền học phí. Tôi không còn lựa chọn nào khác hơn. Thời kì ấy, gia đình tôi quá nghèo khó, mặt khác tôi lấy vợ trong khi chưa có việc làm”.
Khiếu hài là khiếu trời cho
Tháng 12 năm 1959, nghệ sĩ Phạm Bằng bước chân vào Đoàn văn công Hà Nội. Đó là một đoàn tổng hợp các loại hình, từ ca nhạc, múa, kịch nói, cải lương đến chèo, xiếc. Một đêm diễn bằng ấy các tiết mục được “trình”.
Năm năm sau, đoàn kịch Hà Nội cùng các đoàn cải lương, đoàn chèo… được tách ra và bắt đầu đời sống riêng của mình. Tại đoàn kịch Hà Nội, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi mời Phạm Bằng tham gia các vở diễn. Ông bắt đầu nổi tiếng với các vai phản diện.
Sau đó, đạo diễn Trần Hoạt bắt đầu làm một vài tác phẩm kịch hài. Hài đưa vào cuộc sống một cách bình dị nhưng không kém phần sâu sắc. Phạm Bằng cũng tham gia một vài tiết mục. Lời của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi về nghề diễn hài làm Phạm Bằng thấy rất đúng để rồi trở thành tâm niệm: “Những người đóng vai bi thì đóng vai hài rất giỏi”.
Cuối năm 1974, đầu 1975, nghệ sĩ Phạm Bằng chuyển sang đoàn kịch nói Trung ương. Ở đây, ông được hội ngộ với anh em bạn bè của những ngày diễn trong trường Cao đẳng Giao thông công chính xưa. Giáo sư Đình Quang là người phát hiện ra khả năng đóng vai hài của ông, còn thầy Trần Hoạt thì nói: “Tương lai cậu đóng vai hài giỏi. Khiếu hài là khiếu trời cho, không thể mở lớp diễn viên hài, nhưng các diễn viên hài phải có trình độ văn hóa cao, sâu và tư duy vững”.
Trong quá trình tập vở, diễn viên ngày ấy phải tự sàng lọc trước khi đạo diễn tác động. “Diễn viên ngày nay thì không đọc hết kịch bản”, nghệ sĩ Phạm Bằng tâm sự. “Chỉ đọc mỗi phần diễn của mình thì làm sao nắm bắt được các mối liên hệ nhân vật trong vở kịch được. Riêng tôi từ trước đến nay luôn phải đọc trọn kịch bản, rồi mới yên tâm diễn”.
Giai đoạn đầu vào nghề, cuộc sống của Phạm Bằng vẫn chưa thoát nghiệp khổ. Lương đủ sống chỉ 10 ngày, 20 ngày còn lại của tháng thì “xiêu vẹo”. Hơn chục năm kéo dài như thế.
Đến năm 1967 - 1968, bắt đầu “nhấc lưng” lên được, nhưng vẫn còn túng lắm. Sau khi “đứng vững” trên sân khấu, Phạm Bằng truyền nghề diễn bằng việc dạy dỗ một số anh em cùng đoàn. Nhưng lạ thay, không phải truyền kinh nghiệm diễn hài, mà là chính kịch.
Khách hàng cũng là khán giả
Sân chơi Gặp gỡ cuối tuần là nơi thực sự đưa nghệ sĩ Phạm Bằng đến với công chúng một cách sâu rộng. Khán giả càng hoan nghênh bao nhiêu, sân chơi càng được kích động bấy nhiêu.
Khi sân chơi bắt đầu có chiều hướng đi xuống: kịch bản thiếu, nhu cầu khán giả giảm, các ông bầu rất tinh tường và đi trước bằng cách mời các diễn viên hài - truyền hình trở về hài - sân khấu. Nhờ thế, sau khi rời sân chơi chung, các nghệ sĩ hài có ngay sân chơi riêng của mình. Ai ai cũng đắt sô, cũng bận rộn với lịch diễn dày đặc. Phạm Bằng cũng nằm trong số ấy.

Nghệ sĩ Phạm Bằng trước Tam tòa Thánh Mẫu của mẹ để lại. (Ảnh bên của: Minh Đức)

Cùng thế hệ với Phạm Bằng, có các diễn viên từng đóng hài như Trịnh Thịnh, Trịnh Mai - giờ đã giải nghệ bởi già yếu, bởi trí nhớ không còn minh mẫn để học thuộc kịch bản.
Từ năm 2006 đến nay, nghệ sĩ Phạm Bằng đi diễn liên tục. Không làm với người đồng tuổi, đồng thế hệ, Phạm Bằng “đánh đu” với cánh trẻ: làm việc cùng Quang Thắng, Quốc Khánh, hay Vân Dung. Mỗi người, ông tạo thành “cặp diễn” ăn ý.
“Bác Bằng mỗi lần gặp tụi này thấy vui lắm, nói nói cười cười suốt, làm sao mà già đi được. Việc đi diễn hay tập diễn làm cho bác khỏe hẳn ra” - nghệ sĩ hài Vân Dung nói ngay khi tôi nhắc đến Phạm Bằng.
Giờ đây, quán bánh trôi đã nhường lại cho con cháu, ông chỉ phụ giúp thêm vào, nhưng nó là niềm vui giao lưu của ông với khán giả. Thông thường, thấy khách ăn xong, trả tiền là đi. Đến với quán bánh trôi của Phạm Bằng, sẽ thấy khách níu tay chủ quán chào hỏi, coi độ dạo này bác khỏe ra, chừng nào thì ông có vở mới, sao thấy chú ít khi xuất hiện trên truyền hình…
“Trước tết, bà con Việt kiều về nhiều, sau khi xem các tiết mục tôi diễn qua VTV4, họ tìm đến quán của tôi, ăn bánh trôi Tàu. Rồi họ bảo, ngoài đời tôi trẻ hơn trên ti-vi nhiều quá, đó cũng là do tôi thường đóng những vai ông già lẫn cẫn, xộc xệch”, nghệ sĩ Phạm Bằng tâm sự.
“Nói không phải là sĩ diện đâu, tôi ham đi diễn giờ chẳng còn phải vì tiền, mặc dù tôi vẫn tính toán cẩn thận chuyện cát-sê, đi diễn làm tôi khỏe ra nhiều”.
Những buổi sáng, không đi diễn, không ngồi ở quán bánh trôi tán gẫu với khách hoặc chỉ bảo con cháu công việc, nghệ sĩ Phạm Bằng lại loay hoay ngồi viết kịch bản cho các tiểu phẩm hài của mình. Nhờ hoạt động trí óc cũng như tập thể dục thường xuyên, nên ai gặp ông, đều khen nghệ sĩ Phạm Bằng ngoài đời thật trẻ, khỏe và không thể nào đoán được chính xác tuổi.
Sau những buổi tập, diễn, nghệ sĩ Phạm Bằng trở về quán bánh trôi Tàu nhiều kỷ niệm, nhiều nghĩa tình của vợ chồng ông. Quán bánh trôi từng là nơi “kiếm cơm” chính của gia đình ông bên cạnh nghề diễn thu nhập túng bấn.
Thời đó, là diễn viên thì ai cũng thế, nghệ sĩ Minh Vượng ngày làm diễn viên, tối thành công nhân ép nhựa, nghệ sĩ Chí Trung trở thành “con buôn” săm xe, bán xe đạp, buôn xe máy cũ, mở cửa hàng buôn đồ điện, đồ cổ… Còn Phạm Bằng thành ông chủ quán bánh trôi Tàu


Nguồn đọc thêm: http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=146836#ixzz0q0ilmJrJ

--
Pham Duc Ky
Mobile: +84 (091) 3708888
Website: www.mbavn.org
YM: phamducky2007
»»  Đọc tiếp

11 tháng 6, 2010

Một cuốn sách về Phạm Quỳnh

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 6 11, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments


Xuất bản cuốn "Phạm Quỳnh - con người và thời gian"

 Nhà xuất bản Thanh Niên vừa xuất bản cuốn “PHẠM QUỲNH - con người và thời gian” do Khúc Hà Linh viết,  sách được nộp lưu chiểu tháng 6/2010
 
Sách gồm 8 chương :

Chương 1- Hoa Đường. đât cố hương, giới thiệu về quê hương Phạm Quỳnh.
Chương 2- Họ Phạm ở Hoa Đường, giới thiệu về dòng họ của Ông
Chương 3- Số phận một con người, giới thiệu về cuộc đời Ông
Chương 4- Phạm Quỳnh và Tạp chí Nam Phong, nói về văn nghiệp của Phạm Quỳnh và tâm huyết của ông trong việc phát triển chữ Quốc ngữ.
Chương 5-Phạm Quỳnh giữa đường đời, nói về gia đình ông
Chương 6- Bước đường hoạn lộ, nói về thời kỳ làm quan từ tháng 11/1932 đến tháng 3/1945 khi ông rời khỏi chính phủ Trần Trọng Kim
Chương 7- Những ngày ở ẩn, từ sau đảo chính Nhật 9/3/1945 đến khi ông mất 6/9/1945, những nỗi niềm và những trăn trở của ông khi làm quan, cái chết của Phạm Quỳnh.

Tác giả (Khúc Hà Linh) dành nhiều công phu tìm kiếm tư liệu, dành rất nhiều tình cảm với Phạm Quỳnh và gia đình ông, để hoàn thanh một cuốn sách giàu thông tin nhưng ngắn gọn, mạch lạc, về một nhân vật của lịch sử, một nhà văn, một học giả họ Phạm, đã gây súc động cho người đọc. Khúc Hà Linh đã góp phần giúp chúng ta hiểu thêm về Phạm Quỳnh, về “một cuộc đời đầy sóng gió và chịu nhiều búa rìu dư luận, nghiệt ngã. Những cuộc tranh luận, phẩm bình về ông rất trái ngược nhau như hai mảng tối sáng trong một bức tranh thủy mặc”. Đây là cuốn sách viết riêng về Phạm Quỳnh được xuất bản chính thức đầu tiên trong hệ thống xuất bản của Nhà nước. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sach với bà con trong dòng tộc.


Phạm Thúy Lan
»»  Đọc tiếp

10 tháng 6, 2010

Ngươi đóng giả vua Quang Trung

Đăng ngày Thứ Năm, tháng 6 10, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Người đóng giả vua Quang Trung
và câu chuyện có một không hai

Đó là câu chuyện liều mình đóng thế vua Quang Trung đi sứ Thanh của "diễn viên" Phạm Công Trị vào xuân Canh Tuất (1790)

Giả Vương Phạm Công Trị
Sách “Quang Trung - Anh hùng dân tộc 1788 - 1792” của Hoa Bằng, có viết rằng, xuân Canh Tuất (1790), Quang Trung chọn cháu gọi bằng cậu là Phạm Công Trị, đội tên ngài, đóng vai Giả Vương, sang Thanh mừng thọ. Phái đoàn sứ bộ gồm 150 người, trong đó có các quan văn võ cao cấp: Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Tiến Lộc...

Ngày 29/3 năm Canh Tuất (1790), sứ bộ khởi hành từ Nghệ An, đến giờ Tỵ ngày rằm tháng tư, cửa ải Nam Quan mở, đoàn đặt chân đến đất nhà Thanh, bắt đầu chuyến Bắc hành”. Chuyện này, ông Hoa Bằng viết dài, viết kỹ. Sách khác như Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế (tái bản lần 5, năm 1999), mục “Võ Văn Dũng” cũng nhắc. Trên báo, tạp chí Xưa và Nay của Hội Sử học năm 1998 cũng có bài, in luôn cái ảnh đón tiếp ngựa xe cờ quạt của nhà Thanh với Giả Vương qua nét vẽ của họa công nhà Thanh.

Chuyện này có lẽ chúng tôi chẳng bao giờ nhớ nổi nếu như không có cái đêm cúp điện ấy... Nhà anh bạn làm báo Quảng Ngãi ở làng Bình Trung gần đường tàu lửa, tre rợp kín đường, thêm cái thâm u của đêm ngồn ngột hơi nóng cõng theo muỗi mòng vấn vít.

Chịu chẳng thấu, chúng tôi kéo nhau ra bãi bên đường tàu hòng ăn cắp chút “nhàn” của gió. Trong cái mờ mờ của sao đêm, đang đi bỗng dưng y quay trở lại, chỉ tay vào cái nhà thờ tộc như người khổng lồ đang đứng tấn: “Anh có đọc sử không ? Ông tổ họ Phạm của em đang thờ đây là Phạm Công Trị, người đã giả vua Quang Trung đi sứ nhà Thanh”.

Người tôi như bất thần bị dính chưởng. Đốc thúc anh bạn thuyết phục ông cụ đang giữ gia phả họ Phạm cho xem, cụ vui vẻ, lại mang cái băn khoăn của người già khi chi, nhánh họ hàng nhà mình đang típ tắp xa đất Tây Sơn. Thì ra không phải nhưng mà ... phải.

Cụ tổ đây là Phạm Công Quế, anh ruột ông Trị. Cụ Quế có con trai là Phạm Công Tuân, chạy lánh nạn khỏi hoạ tiêu diệt của Gia Long bèn cách xung vào đội quân diệt loạn, tráo mình lẩn trong gánh hát tuồng, ông Tuân ra vùng Bình Trung - Bình Sơn này lấy vợ lập làng.

Nhưng, ông không được đứng tên trong sổ đinh điền mà phải nương núp nhờ họ Phạm của vợ là Phạm Thị Nang. Đất của ông trải dài 3 xã là Bình Trung, Bình Minh và Bình Nguyên thuộc Bình Sơn - Quảng Ngãi bây giờ.

Bạn tôi kể, cũng chưa xa bao lâu, nhiều người nghĩ rằng mộ ông có từ thời ấy chắc là vàng bạc nhiều nên lén đào bới. Tộc họ gom góp lại, dựng bia, xây đàng hoàng.

Hồi còn tỉnh Nghĩa Bình cũ, người vùng Tây Sơn ra làm kênh Thạch Nham, nghỉ tại làng này, nhận họ hàng với nhau. “Ở trong Tây Sơn đó cháu à ! Không biết bao giờ tôi mới vào đó được”.

Tôi mang ao ước đấy của cụ già kèm theo một khối phân vân trên đường vào Tây Sơn. Con người sao mà hay quên. Mà chuyện nhớ quên lịch sử lắm khi cũng theo cái lẽ của lịch sử và thói thường nhân gian.

Ai đạo cao đức trọng công trạng hiển hách thì nhớ. Kẻ “đốt đền” cũng khó quên. Còn lại “thường thường bậc trung” thì thể tất. Nhưng, với ông tổ họ Phạm này, cái sự cho qua ấy, tôi thấy lấn cấn thế nào.

Sách của Hoa Bằng chép rằng, Quang Trung khi đó vì không muốn hạ thấp mình nên thoái thác tang mẹ không đi. Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An bèn cho người sang Nam, rằng nếu thế thì tìm một người trạng mạo giống Quang Trung đi thay. Đây quả là chuyện “mồi chài”, thoả thuận kỳ lạ trong lịch sử bang giao.

Cũng xin gạch lại vài ba đầu dòng cho thấy tấm thịnh tình trọng đãi của Vua Càn Long mà có lẽ hàm trong đó là sự kiêng nể uy lực của một kẻ vừa khiến quan lính nước mình ôm đầu máu. Quốc Vương, khi ở trong nước thường đeo cái đai da sắc đỏ (hồng thinh). Càn Long muốn ưu đãi khách chiến thắng, thưởng cho “hoàng kim thinh đới”.

Đây là thứ đai bằng da có cẩn hoặc nạm vàng. Thể chế Mãn Châu, chỉ có những bậc tông phiên (phiên trần họ đồng tông với nhà vua) mới được dùng thứ đai ấy.

Quả là vinh sủng khó gặp! Rồi thư tín đi về để bàn bạc việc nước của Giả Vương, không phải qua kiểm duyệt mà theo thể chế nhà Thanh là phàm các ngoại phiên đệ trình văn báo đều không được niêm phong. Tiền tiêu của Giả Vương, chỗ ngủ đỗ, ăn uống dọc đường, mỗi ngày hết 4 ngàn lạng bạc, chưa kể yến tiệc, du hí, thưởng ngoạn cảnh sắc, thuyền bè, xe ngựa, phu hầu.

Càn Long, từ cho chữ đến tặng hà bao trong đó đồ bát bảo bằng các thứ ngọc thạch, kim ngân, thượng phương trân ngoạn ... đến nỗi chính Càn Long cũng thốt lên rằng “Cận quang ưng, sủng tích tái kê thanh sử vị tiền văn” (Thân đi triều cận, được ban ân sủng, xét suốt sử xanh trước giờ, chưa hề thấy có sự ưu đãi như thế).

Lúc chia tay, Giả Vương vào bệ kiến xin từ biệt, vua Thanh tỏ lòng thân thiết, bèn mời vào bên giường ngự, lấy tay vỗ vai, ôn tồn yên ủi. Lại sai hoạ công vẽ một bức chân dung đưa tặng làm kỷ niệm.

Sứ bộ ra đi cuối xuân Canh Tuất, đến 29/11 năm ấy thì về nước. Những cuộc tiếp đón, tiễn đưa đã làm triều Thanh mất hết một năm bận rộn. Đoàn Nguyễn Tuấn là người đi trong đoàn, đã viết bằng giọng đắc thắng ở cuối cuốn “Tinh sa kỷ hành” của Phan Huy ích, rằng “Chu sa tinh kỳ diệu nhân nhĩ mục. Sở chí quan lại bôn tẩu nghinh phó” (Thuyền, xe, cờ quạt, quáng cả tai mắt người. Đi đến đâu quan lại phải bôn tẩu đón tiếp đến đó”, rồi “Tòng lai ngô quốc sứ Hoa vị hữu như thử chi kỳ thả vinh giả!” (Trước giờ, người mình đi sứ Tàu chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang vậy).

Cái sự cấn cớ của tôi về ông Trị, mà nói thẳng băng ra là vị trí, công đức của ông với đại cuộc Tây Sơn như thế nào rồi dòng họ ấy bây giờ ra sao, khi tôi vừa mở miệng thì đã gặp ngay ùn ùn tồn nghi lẫn khẳng định.

Cả ông Trần Văn Ký, Giám đốc và Trần Xuân Cảnh, Phó giám đốc Bảo tàng Quang Trung, khi khách chưa kịp nhấp chèn trà, đã tức thì tranh luận. Cháu gọi Quang Trung là cậu, đúng, nhưng vậy thì “Tây Sơn tam kiệt” có chị hoặc em gái không ?

Ông Trị là con bà nào ? Chẳng có tư liệu nào nói cả. Có tư liệu cứ sao không ! Sử gia phương Tây nói có. Khi Quang Trung mất, Nguyễn Nhạc muốn ra Phú Xuân để tang nhưng Trần Quang Diệu quyết không cho, chỉ cho em gái ra...

Ông Trị bị giết hay chết ra sao?... Nhưng rồi hai ông cùng đi đến kết luận rằng, thảy đều nói để nói, bởi tất cả những gì thuộc về nhà Tây Sơn trên đất Tây Sơn này đã bị nhà Nguyễn tảo thanh sạch sẽ ! Cái gì còn đến bây giờ cũng chỉ là tương truyền, cho nên, cái gọi là dòng dõi họ Phạm của ông Trị bây giờ cũng chẳng biết đâu mà nói, kim đáy biển cũng chẳng có để mò.

Bảo tàng Quang Trung thênh thang, uy nghi. Một anh bạn hoạ sĩ ở Bình Định làm hướng dẫn viên cho tôi lội tới đi lui, cười mà rằng liên quan trực tiếp đến nhà Tây Sơn, chỉ còn cái gốc me và giếng nước của đình làng Phú Lạc xưa là hiện vật gốc, còn lại phần lớn là bản mẫu lấy đâu đó và nó nói một điều rằng bảo tàng này có lẽ là lạ nhất thế giới bởi hiện vật gốc quá hiếm hoi!

Tôi ngồi bệt xuống bệ đá trước tiền sảnh bào tàng. Tiếng ve sôi ồn ã không xua được nỗi muộn phiền bất thần len vào. Lúc nãy anh Ký cho tôi xem bản phác thảo tượng đài Quang Trung. Làm thử, thi lại mấy lượt, lần này xem ra là ổn, nhưng anh Hiền nói ngay là bàn tay phải ông đưa về trước nó bị thô thô thế nào.

Anh Ký gật. Tôi chen ngang rằng, chứ mẫu đâu mà làm tượng, thì anh Ký khoát tay ngay thì cũng lấy từ ảnh của ông Trị đi sứ được hoạ lại mà làm, mà vẽ tượng Quang Trung chứ ảnh Quang Trung làm gì có.

Ông phi ngựa, áo mão đế vương, mặt chữ điền sáng láng. Đất nước này, công viên, trường học, bảo tàng, sách vở, biết bao nhiêu là tượng là ảnh Quang Trung, thì cũng chừng ấy “copy” lại từ bức hoạ to lớn đính trên tường kia, rành rành chú thích giả vương Phạm Công Trị đi sang nhà Thanh năm Canh Tuất 1790.

Tôi sực nhớ đâu hồi còn học cấp một, bìa vở có in hình Nguyễn Huệ, râu dày chứ không lún phún đen như hình ông Trị.

“Anh đánh giá thế nào về ông Trị?”. “Thì ổng giả vương mà. Công đức cũng chẳng bao nhiêu đâu”. Cũng anh Ký và anh Cảnh trả lời tôi. Đất nước ta “làm thơ và đánh giặc”, lâu nay ai giỏi hai món đó là lưu danh hậu thế.

Hôm sau, khi hỏi chuyện anh Văn Trọng Hùng, giám đốc Sở VHTT Bình Định, anh Hùng cũng phân đà thấp cao vị trí của ông Trị với tướng lĩnh dưới trướng Quang Trung, rằng so với họ, ông không bằng. Cũng vì lẽ đó mà đến bây giờ, tại Qui Nhơn vẫn chưa có đường hay trường mang tên ông.
Tên tuổi Phạm Công Trị lâu nay không ai nhắc. Phải làm cho dân biết rồi mới tính! Nhưng anh Hùng cũng bỏ ngỏ, rằng, nói như thế không phải là đánh giá thấp ông. Tôn vinh ông bằng khắc tên dán biển, nếu có dịp thì cũng xứng đáng thôi.

Đáp lại câu hỏi của tôi rằng, đã có ai đề nghị lấy tên ông Trị đặt nơi nào đó chưa, thì anh Hùng bảo là chưa. Thế nhưng, khi ngồi với anh Ký, anh lắc đầu trước câu hỏi ấy của tôi là có lần anh đề nghị mà mấy ổng im! Chừng nấy thông tin, thêm cuốn sách chuẩn bị đưa in từ tay anh Hùng là cuốn Địa chí - Lịch sử tỉnh Bình Định, hàng danh tướng nhà Tây Sơn có đủ, riêng ông Trị thì không, làm tôi se lòng.

Ừ, thì cứ cho ông giống Quang Trung, dù chỉ mỗi một việc là giả vương thôi. Nhưng, đây không phải sân khấu phim ảnh, đến đoạn tươi mát nóng bỏng hoặc phi thân nhảy núi tông xe thì diễn viên danh tiếng nước ta thường nhờ người khác đóng hộ bởi sợ uy danh tính mạng hao tổn.

Đi đây là đi bang giao đặc biệt, dẫu rằng có người “môi giới” là Phúc Khang An, thì đây chẳng phải chuyện chơi là mà một kiểu “liều mình cứu chúa”.

Nếu tôi nói không quá, thì Lê Lai liều mình đóng thay Lê Lợi, là vì đại nghiệp nhưng cũng theo lẽ “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Không rõ ông Trị đi suốt từ ải Nam Quan đến Yên Kinh, gần một năm ròng, diện kiến Càn Long, đối đáp với quan tướng nhà Thanh ra sao, xem ra nào dễ, lỡ rủi lộ thì có tránh được rắc rối, dẫu rằng có bá quan văn võ thuộc loại máu mặt đi theo sắp đặt cả, nhưng không lẽ ngậm miệng im lặng hoặc cười thôi à?

Khó thay. Chút tự kỷ của người thắng là Quang Trung đã đẩy ông vào thế kẹt, thực hiện một sứ mệnh quá sức, ấm ớ là “bể”, chuyện quốc thể có cơ xê dịch, chưa nói tính mạng ai dám chắc bảo toàn và theo tôi, đó là chuyện có một không hai trong ngoại giao mà tôi được biết. Quá hiếm hoi. Một đi không trở lại. Có người bảo rằng, cuối đời ông không bị giết mà sống ẩn dật rồi mất...

Đứng bên bờ sông Côn đã nhập nhoạng tối, bài học giáo khoa hồi nhỏ đột ngột hiện về trong tôi: “Chiều chiều én liệng truông mây. Cảm thương chú Lía bị vây trong thành”. Chàng Lía là nhân vật không có thật, chỉ là khát vọng gởi gắm chống lại cường quyền của người nông dân Bình Định dưới ách phong kiến.

Ở Qui Nhơn hiện có đường Chàng Lía. Sông Côn mùa này cạn kiệt, sa bồi như chiếc bánh tráng khổng lồ được nướng phồng lên phủ choàng đôi bờ. Chỉ có gió ngút ngàn đồng bãi, thổi như muốn dìm màn đêm vào từng góc nhà ở thị trấn bán sơn địa Phú Phong này.

Gió từ Bình Thành bên kia sông thổi qua. Nơi đó là chỗ chôn nhau cắt rốn của ba anh em nhà Tây Sơn. Lịch sử rất công bằng, nhưng nhiều khi là cơn gió vô tình quên lãng.

Ôi, Giả Vương Phạm Công Trị. Tôi tìm về quê hương ông để mãi một lần không lãng quên rằng, tôi đã biết đến một diễn viên đặc biệt, đã đóng giả nhưng diễn thật một vai của một tấn tuồng chính trị hiếm hoi...

Nguồn: Báo Tiền Phong
»»  Đọc tiếp

9 tháng 6, 2010

Người lưu giữ kho sử liệu quý về Hoàng Sa, Trường Sa

Đăng ngày Thứ Tư, tháng 6 09, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Người lưu giữ kho sử liệu quý về Hoàng Sa, Trường Sa

 LGT : Ông Phạm Thoại Tuyền là người con của dòng họ Phạm (Văn) ở thôn Đông, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, người vừa qua đã tiếp và là “hướng dẫn viên” cho Đoàn đại biểu BLL Họ Phạm trong những ngày chúng tôi ra thăm bà con họ Phạm ở đảo Lý Sơn và dự Lễ khao lề tế lính Hoàng Sa của dòng họ Phạm tại đây; chúng tôi đã ăn ở tại nhà ông trong suốt thời gian lưu lại trên đảo. Thấy bài của Huy Minh Sơn đăng trên Công an nhân dân ngày thứ ba, 11/05/2010 và sau đó nhiều báo khác đăng lại - là bài báo hay viết về ông, chúng tôi xin giới thiệu lại trên Website của họ ta để mọi người cùng đọc.  
Thúy Lan

"Ngôi nhà cổ vật" của cụ Phạm Thoại Tuyền (Lý Sơn, Quảng Ngãi) hiện tại có trên 2.000 món cổ vật. Các cổ vật chủ yếu là chén, bát, đồ sành sứ và cả đồ dùng trong các gia đình của đại quan triều đình xưa, các tượng thờ về các vị thần Sinva hay vị Cai đội Hoàng Sa xưa cùng với một số lượng rất lớn các văn tự tế lế trong các dịp lễ khao lề thế lính từ thời Cảnh Hưng đến nay…Những sử liệu này là báu vật không chỉ với cụ Phạm Thoại Tuyền mà của cả người dân Lý Sơn bởi nó là một trong những bằng chứng khách quan về lịch sử cho thấy quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Đến Lý Sơn (Quảng Ngãi), hỏi về người nào biết rõ nhất Lý Sơn, ai ai cũng bảo đó là cụ Phạm Thoại Tuyền - hậu duệ đời thứ 7 của Thủy quân Chánh suất đội Phạm Hữu Nhật, một trong những vị Chánh cai đội nổi tiếng trong đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa năm xưa vâng mệnh triều đình dong thuyền ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để làm nghĩa vụ thiêng liêng là dựng bia, cắm mốc chủ quyền lãnh hải biên giới quốc gia khai thác sản vật, đo đạc thủy trình, tên ông đã được lấy đặt cho một đảo trên quần đảo Hoàng Sa. Cụ còn là hậu duệ của cụ Phạm Văn Lân - người giữ chức vụ Thủ sắc ở đình làng An Vĩnh, Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Dòng họ Phạm là một trong 13 tộc họ tiền hiền trên đảo Lý Sơn.
Gian nhà ngoài rộng chừng ba mươi mét vuông có lẻ, nhưng lại "bị" chen lấn hai tủ đựng toàn món đồ cổ cụ trưng bày để "khoe" với ai đến nhà có thiện ý tìm hiểu về Lý Sơn. Không khó để vào đề câu chuyện, vì như đoán trước được "ý đồ" ghé thăm nhà cụ của chúng tôi, cụ bảo, "cũng chỉ là một chút gọi là mình lưu giữ gia bảo của gia đình từ nhiều thế hệ, sau đó sưu tầm thêm để có điều kiện hiểu sâu thêm về biển đảo quê hương mình, mai này con cháu còn có cái mà biết, mà học hỏi và lưu giữ truyền thống quê hương”.

                                                              Kho cổ vật của cụ Tuyền.

Giới thiệu về từng món đồ cổ quý giá được cất giữ cẩn thận trong tủ gương, cụ nâng niu từng ly một khi bưng các món ấy ra khoe với chúng tôi: Đây là tượng của một vị Cai đội thủy quân thuở trước trong Đội hùng binh
Hoàng Sa năm xưa được người đời kính trọng đã đúc thành tượng đồng để thờ tự. Bức tượng bằng đồng bán thân, đầu đội mũ của Cai đội thủy quân xưa.
Ngay tại nơi trang trọng nhất của gian nhà có treo một bức "An Nam Đại quốc họa đồ" nguyên là của Giám mục Taberd, người Pháp vẽ năm 1838 in trong cuốn Từ điển Latinh An Nam được phóng to, cụ Tuyền kể về bức họa: Trong dịp ra thăm đảo Lý Sơn, Tiến sĩ Nguyễn Nhã (Trưởng ban Điều hành tủ sách Hoàng Sa - Trường Sa và biển Đông, Ủy viên Ban chấp hành Hội Khoa học lịch sử Việt Nam), có đến thăm nhà và tặng cụ món quà quý giá này. Nó như là một báu vật không chỉ với cụ mà cả Lý Sơn này bởi nó là một trong những bằng chứng khách quan về lịch sử cho thấy quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Cụ Tuyền nhấn mạnh: "Sở dĩ có thể nói bức họa đồ này là bằng chứng khách quan về lịch sử biển đảo Việt Nam là vì ông Tabred, trên tấm bản đồ này không hề có một từ, một hòn đảo nhỏ nào quanh khu vực rộng lớn của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được ông Tabred cùng các cộng sự của mình khi xuất bản cuốn Từ điển Latinh An Nam ghi là của nước khác cả". Tất cả đều ghi thuộc An Nam".
Kể về Lễ khao lề thế lính, cụ Tuyền chậm rãi nói: Vua Minh Mạng phê chuẩn trong bản tấu của Bộ Công ngày 12/2/1836 rằng: "Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4,5 thước, rộng năm tấc, dày một tấc làm cột mốc". Trong số những người thực hiện nghĩa vụ của thần dân với đất nước ngày xưa ấy, có rất nhiều người "một đi không trở lại". Họ chính là những "nhân vật chính" trong Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa được cư dân huyện đảo Lý Sơn duy trì từ mấy trăm năm qua".
"Ngôi nhà cổ vật" của cụ Phạm Thoại Tuyền (thôn Đông, xã An Vĩnh, Lý Sơn, Quảng Ngãi) hiện tại có trên 2.000 món cổ vật. Nó bao gồm đủ chủng loại, có món ra đời cách đây hàng nghìn năm từ thời văn hóa Chămpa khoảng 2.000-3.000 năm, Văn hóa Sa Huỳnh khoảng 1.600-1.700 năm… Các cổ vật chủ yếu là chén, bát, đồ sành sứ gia dụng và cả đồ dùng trong các gia đình của đại quan triều đình xưa, các tượng thờ về các vị thần Sinva hay vị Cai đội Hoàng Sa xưa cùng với một số lượng rất lớn các văn tự tế lế trong các dịp lễ khao lề thế lính từ thời Cảnh Hưng đến nay…
Người Lý Sơn hôm nay vẫn luôn mang một tâm thức hướng biển rất sâu sắc. Cụ Tuyền chỉ tay vào một cây cảnh trong vườn nhà - cây cổ thụ già mang dáng hình một thiếu phụ đang chờ đợi một điều gì, cụ nói: "Chinh phụ Hoàng Sa" đấy, nó là cây Sộp, tôi phải kỳ công lắm mới nặn nên hình thù đó. Đó là hình ảnh của một thiếu phụ xưa có chồng đi lính biển ở Hoàng Sa-Trường Sa, số phận chồng nơi hải chiến chẳng biết thế nào. Những người thiếu phụ Lý Sơn xưa vẫn ngày đêm đứng trên mé biển trông ngóng về phía Trường Sa để trông đợi hình bóng những thân tàu quen thuộc".

                    Cụ Tuyền chăm sóc cây cổ thụ mang dáng hình của Chinh phụ Hoàng Sa.

Câu chuyện cảm động này đã có câu ca dao lưu truyền rộng rãi trong lòng người Lý Sơn xưa cho đến nay rằng: "Chiều chiều ra ngóng biển xa/ Ngóng ai như ngóng Trường Sa chưa về". Và lễ khao lề thế lính cũng ra đời từ những lần ra đi mà chẳng mong đợi ngày về của các hùng binh Hoàng Sa xưa: "Hoàng Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi/ Hoàng Sa mây nước bốn bề/ Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa". Thế mới biết sự oai hùng và bi tráng của những hùng binh Hoàng Sa, Trường Sa năm xưa !
Người Lý Sơn hôm nay vẫn luôn ngóng về biển, bất chợt một tiếng còi tàu cũng làm họ nhốn nháo ngóng trông, dù chỉ là tiếng còi tàu cao tốc hú lên mỗi lần vào ra. Thế nhưng dường như nó vẫn hằn sâu trong tâm khảm người Lý Sơn một cảm thức đợi chờ, trông ngóng. Từ lịch sử xa xưa đến giờ như chảy mãi vào máu của con cháu họ biết bao thế hệ cho đến hôm nay, và còn mãi mai sau.
Trên đường trở về đất liền, câu chuyện về đảo Lý Sơn vẫn được kể trong chuyến tàu cao tốc Lý Sơn - Sa Kỳ. Đó là chuyện trên đảo còn hằn in nhiều dấu tích liên quan đến đội hùng binh Hoàng Sa, Trường Sa như nhà thờ họ Võ và mộ cụ Võ Văn Khiết, nhà thờ và mộ cụ Phạm Quang Ảnh cùng các binh phu đi Hoàng Sa; nhà thờ chi phái Phạm Văn và mộ cụ Phạm Hữu Nhật; nhà thờ họ Đặng thờ cụ Đặng Văn Siểm, là tộc họ đã hiến tặng cho Nhà nước tài liệu lịch sử quý giá liên quan đến chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa sau 175 năm cẩn trọng trao truyền gìn giữ.
Ngôi đình An Vĩnh xa dần trong tầm mắt nhìn khi con tàu phóng nhanh về phía đất liền. Tôi cứ trông mãi cho đến khi khuất tầm mắt sau những vệt sóng chạy dài sau đuôi thuyền và nghĩ đình làng An Vĩnh, An Hải - nơi những binh phu tế tự trước khi lên đường làm nhiệm vụ hay như Âm Linh Tự - nơi phối thờ các chiến sĩ Hoàng Sa và Trường Sa trong nhiều thế kỷ. Đó là những bằng chứng lịch sử không thể tranh cãi về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông của Việt Nam
Huy Minh Sơn
* Tôi mạn phép tác giả sửa lại một vài lỗi đánh máy và tư liệu - PTL

                     Ông Phạm Thoại Tuyền giới thiệu những thư tịch cổ về Hoàng Sa và Trường Sa
                                            mà ông đang lưu giữ. Ảnh : Đoàn Hửu Trung


Ông Phạm Thoại Tuyền cùng Đoàn đại biểu BLL Họ Phạm VN tại Đài kỷ niệm “Đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, một măt Đài có dồng chữ “BẢN QUỐC HẢI CƯƠNG HOÀNG SA XỨ TỐI THỊ HIỂM YẾU – Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân 1836” tại thôn Đông, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. Ảnh: Trịnh Phưong -Báo Quảng Ngãi, ngày 3/4/2010.


Ông Phạm Thoại Tuyền và anh Phạm Văn Đoàn (người đứng đầu bên trái), hậu duệ của Chánh đội trưởng Đội Thủy quân Hoàng Sa Phạm Hữu Nhật năm Bính Thân 1836, cùng Đoàn đại biểu BLL Họ Phạm Việt Nam tại nhà ông P.T.Tuyền trong những ngày Đoàn ra thăm bà con họ Phạm tại đảo Lý Sơn và dự Lẽ khao lề tế lính Hoàng Sa của dòng họ Phạm (Văn) trên đảo. Ảnh: Trịnh Phưong - Báo Quảng Ngãi, ngày 4/4/2010.
»»  Đọc tiếp

4 tháng 6, 2010

Phạm Nhật Vượng - một doanh nhân thành đạt

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 6 04, 2010 bởi Phạm Đạo · 1 comments

Doanh nhân Phạm Nhật Vượng: Thành đạt và hiếu thảo

http://vietbao.vn/Kinh-te/Doanh-nhan-Pham-Nhat-Vuong-Thanh-dat-va-hieu-thao/70080283/87/

Cùng diễn ra trong ngày 14/3, tại huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) buổi sáng là lễ khởi công xây dựng trường Trung cấp dạy nghề Phạm Dương (nguồn đầu tư 16 tỷ đồng), buổi chiều là lễ khánh thành trường Mầm mon xã Phù Lưu nguồn đầu tư 2,5 tỷ đồng.

Trường mầm non Phú Lưu

Đây là hai công trình lớn được tài trợ xây dựng bởi người con của quê hương Hà Tĩnh, đồng thời cũng là cổ đông lớn nhất của Cty Cổ phần Vincom - ông Phạm Nhật Vượng.
Cty Cổ phần Vincom được chính thức thành lập vào tháng 11/2004. Đây chính là đơn vị chủ quản đầu tư và quản lý tòa nhà tháp đôi hiện đại bậc nhất Hà Nội - Vincom City Towers với số vốn trên 600 tỷ đồng và Khu du lịch Hòn Ngọc Việt (Nha Trang), Cáp treo vượt biển dài nhất thế giới với hàng trăm triệu USD.

Chỉ sau hơn hai năm hoạt động, ngoài việc khẳng định thương hiệu đẳng cấp hàng đầu, Vincom còn tham gia mạnh mẽ các hoạt động xã hội.
Bên cạnh sự nỗ lực cố gắng làm việc của tập thể cán bộ công nhân viên còn là những đường hướng chỉ đạo đúng đắn của ban lãnh đạo và Hội đồng Quản trị, trong đó có vai trò quan trọng của ông Phạm Nhật Vượng - không chỉ là một nhà kinh doanh thành đạt mà còn là người con hiếu thảo, tâm huyết muốn đóng góp hết sức mình vì sự phát triển của quê hương...
* *
*
Chuyện khởi đầu từ tháng 2/2000, khi ông Trần Đình Sửu - Trưởng Phòng Giáo dục – Đào tạo huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) nhận được bức thư:
“Hà Nội 30/1/2000
... Thưa ông, ông Phạm Dương là một người dân xã Thụ Lộc, huyện Can Lộc - cha đẻ của anh em chúng tôi. Tuy lúc này đã không còn người cha yêu dấu ở bên cạnh dìu dắt nữa nhưng chúng tôi vẫn luôn hướng về cội nguồn, về quê cha đất tổ. Hôm nay, đại diện cho gia đình, tôi cầm bút viết thư này cho ông là muốn đặt một vấn đề hết sức tế nhị mong ông xem xét, cụ thể là:
Chúng tôi vẫn luôn muốn tấm lòng của mình phải được thể hiện bằng hành động. Do vậy, chúng tôi có ý được đem một số tiền nhỏ về quê hương để giúp đỡ cho các cháu học sinh ham học, học tốt nhưng hoàn cảnh khó khăn.
Vì vậy, chúng tôi muốn được trao đổi với ông, người đứng đầu ngành giáo dục huyện nhà để toại ý. Nếu ông không chê tấm lòng của chúng tôi, xin ông vui lòng chỉ giáo cho chúng tôi việc này.
Mọi chi tiết cụ thể cần bàn bạc, mong ông vui lòng liên lạc qua tôi: Phạm Nhật Vũ…”.
Đang công tác ở một vùng đất học, đời sống của dân còn nghèo, ông Trần Đình Sửu rất mừng báo với cấp ủy và chính quyền rồi hồi âm với chủ nhân bức thư ấy.
Doanh nhân Phạm Nhật Vượng là một trong những người được xếp vào hàng Đại gia mà báo Tiền phong số Tết 2006 đã điểm danh trong bài “ Ai là người giàu nhất Việt Nam ” của tác giả Dương Kỳ Anh

Từ năm học 2000-2001, quỹ học bổng mang tên Phạm Dương ra đời ủng hộ cho ngành giáo dục Can Lộc 50 triệu đồng để giúp 500 cháu, mỗi cháu 100.000 đồng mua sách vở.
Sau đó, liên tục mỗi năm khoản tiền từ nguồn học bổng Phạm Dương chuyển cho huyện Can Lộc là 100 triệu đồng. Số tiền ấy tính đến nay đã hơn nửa tỷ đồng đã đến tay hàng ngàn học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn, được trợ giúp để vươn lên học giỏi, thành đạt.
Là những người có học mà làm nên sự nghiệp, anh em trong gia đình này hướng về cội nguồn tìm mọi cách góp phần khuyến học đào tạo nhân tài cho quê hương.
Tháng 5/2006, trường Mầm non Phù Lưu được khởi công xây dựng trên diện tích 5.000m2 theo tiêu chuẩn quốc gia Việt Nam, lấy mô hình các trường mầm non hiện đại ở Ucraina. Công trình bao gồm 5 khối nhà nối liền nhau bằng các hành lang liên thông; 4 khối nhà học, mỗi nhà có diện tích 170m2 gồm 2 phòng.
Khu nhà hiệu bộ có tổng diện tích 170m2 gồm phòng hiệu trưởng, phòng giáo viên. Phía sau là bếp, nhà ăn, phòng y tế, khu vệ sinh… Sân trường bằng bê tông rộng 250m2 có nhiều khu vui chơi giải trí cho các cháu. Diện tích còn lại dành cho việc trồng hoa, cây cảnh... Trường có thể nhận khoảng 250-300 cháu từ 3 đến 6 tuổi.

                                                       Vincom City Towers

Trong buổi lễ khánh thành, ông Đặng Ngọc Sơn - Bí thư Huyện ủy Can Lộc nói: “Dân Phù Lưu có mức sống trung bình mỗi năm là 400 kg thóc giá thành tương đương 1.000.000 đồng.
Nếu việc xây dựng trường mầm non theo phương thức huy động nguồn đóng góp từ dân như các địa phương khác thì mỗi gia đình ở đây phải góp vào 60 triệu đồng, nghĩa là bằng nguồn thu nhập 60 năm của một nông dân. Cứ nhẩm tính như vậy càng thấy sự quan tâm của gia đình anh Phạm Nhật Vượng là rất lớn lao”.
Tiến sỹ Lê Khắc Hiệp, thành viên trong ban lãnh đạo Vincom thay mặt gia đình anh Phạm Nhật Vượng về dự lễ khánh thành cho biết: Ở Ucraina, anh Phạm Nhật Vượng cũng đã đầu tư xây dựng một trường mầm non đạt chuẩn quốc tế, mong trường Mầm non Phù Lưu sớm đạt chuẩn Quốc gia.
Ngoài việc lo cho ngành Mầm non của xã, gia đình anh Phạm Nhật Vượng còn chăm lo việc hướng nghiệp hành nghề cho một bộ phận lớn của thanh niên Hà Tĩnh.
Trường Trung cấp dạy nghề Phạm Dương được thiết kế theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam 60 - 2003 trên khuôn viên 40.000 m2, nhằm đào tạo nghề cho thanh niên góp phần nâng cao trình độ cũng như khả năng làm việc, đáp ứng đòi hỏi của thị trường hiện tại và tương lai, giải quyết công ăn việc làm lập thân lập nghiệp cho tuổi trẻ.
Đây sẽ là trường dạy nghề cấp tỉnh với tổng số vốn đầu tư 16 tỷ đồng. Trong đó 12 tỷ xây cơ sở vật chất trường lớp và 4 tỷ mua sắm trang thiết bị dạy học. Công trình này chính là một bước đón đầu nhằm tạo ra đội ngũ lao động có chất lượng cao cho Hà Tĩnh và miền Trung.
Hiện tại 6 nhà thầu xây dựng tiến hành làm một lúc. Công trình sẽ hoàn thành sau 5 tháng. Từ năm học 2007 – 2008, trường sẽ đào tạo mỗi khoá 500 em bao gồm các ngành: Cơ khí, kỹ thuật, xây dựng, du lịch… Những học viên qua đây sẽ có đủ tay nghề và ngoại ngữ không những làm việc và lao động trong nước mà còn đi lao động hợp tác quốc tế.
Nơi đây còn có thêm các khoá học nghề ngắn hạn như: Vệ sỹ, lái xe các hạng và liên kết đào tạo, tập huấn cho khoảng 320 học viên. Giáo trình giảng dạy trong trường theo tiêu chuẩn của Tổng cục Dạy nghề quy định và theo giáo trình của các trường uy tín liên kết đào tạo, biên soạn.
* *
*
Ông Phạm Nhật Phước và bà Nguyễn Thị Biện quê ở làng Phù Lưu (nay là xã Thụ Lộc, huyện Can Lộc) sinh được hai người con. Người chị tên Phạm Thị Lộc (nay đã 85 tuổi, đang sống ở quê nhà), người em trai tên là Phạm Nhật Quang (sinh năm 1926). Ông lấy vợ quê ở Hải Phòng, sinh 3 người con gồm: Phạm Nhật Vượng (1968), Phạm Thị Lan Anh (1970), Phạm Nhật Vũ (1972).
Sau này ông Phạm Nhật Quang đổi tên là Phạm Dương. Cả ba người con của ông Phạm Dương đều sinh ra trên đất Hải Phòng, học giỏi và thành đạt. Anh Phạm Nhật Vượng du học ở Liên Xô cũ rồi ở lại làm ăn.
Thời Liên Xô cũ sụp đổ, đời sống của người dân nhiều nước trong khối cộng đồng gặp khó khăn, Phạm Nhật Vượng đã thành lập Tập đoàn kinh tế TECHNOCOM giữ vị trí số một trong lĩnh vực sản xuất thực phẩm ăn nhanh tại Ucraina.
Lĩnh vực kinh doanh này phất lên nhanh, tổng số vốn hiện nay lên tới hàng trăm triệu USD với hơn 3.000 cán bộ công nhân viên đang làm việc. Anh Phạm Nhật Vượng là Chủ tịch Tập đoàn TECHNOCOM kiêm Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam toàn Ucraina.
Điều đáng nói là những người con của ông Phạm Dương không sinh ra và lớn lên trên quê hương Can Lộc nhưng tấm lòng hiếu thảo đối với quê cha đất tổ thì như là chuyện cổ tích… không thể lấy gì để so sánh.

Võ Minh Châu
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
»»  Đọc tiếp

Cây không gốc lá sao xanh!

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 6 04, 2010 bởi Phạm Đạo · 0 comments

CÂY KHÔNG GỐC, LÁ SAO XANH?

Bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế đỡ khó khăn hơn, đi lại dễ dàng hơn, thông tin nhiều hơn, người ta bắt đầu muốn tìm về tổ tiên gốc gác của mình. Cũng thông cảm thôi, ngày trước ăn còn chưa xong, nói gì đến chuyện bỏ công bỏ việc mà lo chuyện gia phả cây cành nhành lá, rồi dò tận ngọn nguồn? Nay khác rồi. Câu chuyện sau đây chỉ là một trong muôn vàn chuyện về quê nhận họ mà chúng ta từng nghe…

1-Về đất học tìm Ông Nghè

Tôi tuy là thứ nhưng vì có “số” làm trưởng (nghe các cụ bảo thế) nên được giao giữ gia phả dòng họ Phạm đã được dịch ra quốc ngữ. Và điểm sáng của cuốn gia phả này, cũng được coi là đời thứ nhất của chi họ, là một trong 14 đệ tam giáp đồng tiến sĩ đỗ khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái thứ năm (1724) - cụ Phạm Hữu Du, đã được đề danh trên bia tiến sĩ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Điều này tôi từng nghe các bậc cha chú kể lại nhiều lần và năm nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết nguyên đán là con cháu Cụ lại vào Văn Miếu, trước là thắp hương viếng Cụ và các vị khoa bảng khác, sau là du xuân. Có điều cả họ vẫn ao ước là làm sao tìm được về quê gốc như trong gia phả còn ghi lại: làng Quán Các, huyện Giao Thuỷ, phủ Xuân Trường, Nam Định. Bởi cứ theo như địa lý hành chính hiện nay thì không có nơi nào ở Nam Định có địa danh đúng như vậy. Chưa tìm được về quê gốc, thắp một nén hương tại nhà thờ Tổ, tôi cứ thấy bứt rứt trong lòng.

Trong một chuyến đi công tác, tôi vui chân theo bạn đến thăm một người rất nổi tiếng trong vùng về tài dự đoán tương lai, đặc biệt là tương lai gần. Tôi bày tỏ nguyện vọng đang đau đáu của mình, và muốn biết xem dự định của tôi có thực hiện được không, thì được nghe: dứt khoát tìm được, nhà thờ Tổ vẫn còn vừa được tu bổ khang trang, còn cả mộ Tổ nữa. Nghe vậy mà lòng tôi cứ xốn xang, nhưng không dám mừng vội.
Vậy là, nhân cơ quan có công việc ở Nam Định, tôi xin nhận công việc này, để may ra có cơ duyên nào chăng. Đoàn chúng tôi đến làm việc với ngành giáo dục huyện Nam Trực là một vùng đất học nổi tiếng của Nam Định. Sau khi tìm hiểu về phong trào khuyến học ở đây, chúng tôi được địa phương tặng một cuốn Kỷ yếu “Nam Trực – vùng đất học”. Giở trang vàng đầu tiên có ghi danh 22 tiến sĩ thời phong kiến của huyện Nam Trực. Và đây rồi: tiến sĩ Phạm Hữu Du, chức vụ , quê quán xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực.
Tôi lập tức về ngay Tân Thịnh, và không khó khăn gì để tìm thấy làng Quán Các. Vừa đến đầu làng, rất vắng vẻ, tôi gặp một cụ già và hỏi thăm thì chính cụ là người trông coi từ đường họ Phạm đại tộc làng Quán Các. Tôi cứ như người đi trong mơ, không hiểu có phải các cụ Tổ linh thiêng đã “cảm” được lòng con cháu mà chỉ đường cho tôi chăng? May quá là may. Tôi cứ thế theo cụ…

2-Đất lở người mòn vẫn lưu truyền thờ phụng

Cụ đưa tôi vào thắp hương trước ở đền Quán Các, thờ nữ tướng Trịnh Thị Cực giúp bà Lê Chân đánh đuổi giặc Nguyên Mông từ những năm 40-43 mà theo huyền sử thì xác bà trôi đến bến đò Quán Các thì dừng lại, rồi biến mất. Từ đó dân làng lập đền thờ bà và tôn bà là Thành hoàng làng Quán Các.

Cụ từ kể cho tôi nghe lai lịch từ đường họ Phạm Đại tộc: Trước đây họ ta đã xây từ đường phía ngoài đê bao sông Hồng, song do bờ sông lở nên đến thời Pháp thuộc, họ ta đã dời Từ đường vào trong đê bao, sát với đê chính hiện nay nhưng bờ sông Hồng vẫn tiếp tục lở nên năm 1962, họ ta phải dỡ bỏ Từ đường, rước các cụ vào thờ chung với Thành hoàng làng tại đình làng Quán Các. Do đất lở người mòn, con cháu họ Phạm nhiều người đã di cư đến ở các nơi khác, chỉ còn rất ít người có nhà ở trong đê chính còn trụ lại làng. Để làm trọn bổn phận của cháu con đối với tổ tiên, các cụ cao tuổi ở 4 ngành trong họ đã họp dòng họ, ra khuyến cáo gửi con cháu trong họ cùng góp công của xây dựng lại Từ đường Phạm đại tộc ở thửa đất bên cạnh Đình làng, đúng với mẫu Từ đường cũ của Họ. Ngày 23, 24-4-1998, Họ đã tổ chức lễ khánh thành Từ đường, rước Cụ Thuỷ tổ họ Phạm từ đình làng về thờ ở ban trên và và rước các Cụ Tổ của 4 ngành thờ ở ban dưới. Phía bên trái là ban thờ Cụ Nghè Phạm Hữu Du, vẫn còn khám thờ đưa từ bên Từ đường cũ về; bên phải là ban thờ các liệt sĩ họ Phạm. Hàng năm, Họ tổ chức lễ Giỗ Tổ vào 28 tháng 3 âm lịch và 28 tháng 12 âm lịch, Giỗ Cụ Nghè vào 4 tháng Chạp.

Nhớ lời tiên đoán được nghe trong chuyến công tác trước, tôi hỏi dấn thêm:

-Vậy mộ cụ Tổ họ ta có còn không ạ?

-Có đấy, -cụ từ hồ hởi nói. Trước thì chỉ có một nấm đất to thôi, năm 2007 con cháu trong họ góp tiền xây lại khang trang rồi. Cả mộ cụ Nghè nữa, cũng xây quây lại gọn ghẽ. Trong đền còn giữ đòn khiêng do Vua Lê ban cho để đua cụ Nghè tạ thế từ trong Huế về an táng tại quê nhà ta. Để tôi đưa bác ra viếng mộ các cụ.
Đứng trước phần mộ cụ Tổ cách tôi đến 15 đời, mộ cụ Nghè cũng cách tôi đến 7 đời, mà sao tôi có cảm giác như có hạt máu từ mấy trăm năm đang chảy trong huyết quản mình hôm nay. Các cụ ta nói cấm có sai, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Tôi và cụ từ họ Phạm đây, là có chung một dòng cháu Tổ tiên ấy, như lá trên cây, có thể không chung cành nhưng cùng gốc.

Chia tay tôi, cụ Từ không quên dặn: Sắp đến giỗ Tổ 28-3 rồi, bác đưa con cháu về trước là thắp hương nhớ Tổ, sau là nhận họ nhận hàng nhé.

3-Về cội nguồn

Tin tôi tìm được nhà thờ Tổ và mộ Tổ nhanh chóng loan đến khắp họ hàng anh em. Chúng tôi háo hức chuẩn bị cho lần đầu tiên tìm về nguồn cội. Nói đúng ra thì không phải ai cũng háo hức, nhất là con trẻ. Chúng bảo: Từ trước đến nay mình vẫn khai trong lý lịch quê quán là Thái Bình, bây giờ lại bảo quê Nam Định, vậy là sao? Mồ mả ông bà vẫn còn ở Thái Bình kia. Tôi lại phải đứng ra giải thích một hồi, và học theo câu nói cửa miệng của những người Quán Các: đất lở người mòn, các cụ nhà ta đã dời sang Thái Bình từ 5 đời nay, còn gốc gác thì vẫn là họ Phạm ở Quán Các.

Chúng nó lại cãi lý: Nếu theo luật thì cách nhau 5 đời là đã lấy nhau được rồi đấy ông ạ. Đây thì tính đến gốc là những 15, 16 thế hệ, lại còn ngành nọ ngành kia, họ hàng như vậy thì bắn ca nông không tới.
Lý thì thế cũng phải, nhưng còn tình chứ, giọt máu đào cơ mà! Thôi, không chấp với đầu xanh tuổi trẻ, ăn chưa no, lo chưa tới, nên tôi không buồn, mà cố gắng động viên con cháu cùng về quê gốc ngày giỗ Tổ.
Do mối liên hệ đã được kết nối nên càng gần đến ngày giỗ, những cuộc điện thoại Hà Nội – Quán Các càng dày hơn, dù chưa ai biết mặt ai, hoàn cảnh ra sao.

Người trong họ ra đón chúng tôi tận đầu làng. Phút gặp gỡ đầu tiên không hề có sự bỡ ngỡ xa lạ nào. Và, làng quê còn nghèo như bao làng quê khác, nhưng nhà nào cũng mời chúng tôi về ăn cơm và nghỉ lại, sáng mai dự Giỗ. Đành phải chia ra, mỗi nhà vài người cho tình cảm.

Đang vào mùa thiếu điện, bữa cơm đèn dầu gợi lại cảnh xưa. Hầu như không ai muốn ăn, câu chuyện quê quán, họ hàng cứ thế được kể ra. Đến khuya cũng không ai muốn ngủ, dậy sắp lễ, đợi cho đến sáng.
3 giờ sáng chủ nhà đã lục đục dậy, nào đun nước, thổi cơm, và tắm gội cho sạch sẽ để lên Từ đường lễ Tổ. Bây giờ, nhà nào cũng có khu toa-let sạch sẽ, thơm tho với đủ loại dầu gội sữa tắm, nhưng bà chủ nhà vẫn gội đầu bằng nước bồ kết lá bưởi. Đơn giản lắm: bồ kết sao vàng giã nhỏ đựng sẵn trong cái hộp nhựa, xúc vài thìa cho vào cái túi rút buộc lại ngâm trong nước sôi vài phút, đổ ra chậu, hái vài lá bưởi vò nát cho vào, gội vừa sạch, lại mượt tóc và thơm tự nhiên. Mấy chị em ở Hà Nội về cứ thế bắt chước làm theo. Không phải chỉ là chuyện gội đầu bồ kết, mà là cái cách người ta cung kính Tổ tiên như thế nào, cái tình cảm trong họ ngoài làng ra sao.

Lễ dâng hương, lễ Tế được tổ chức trang nghiêm, tôn kính, bất kể lễ vật lớn nhỏ thế nào, như một cụ bà nói: Người ta về lễ vì Tổ vì tiên chứ không ai vì tiền vì bạc. Các nhánh con cháu họ Phạm từ Yên Bái, Phú Thọ, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nội…về, gặp gỡ nhau, trao đổi gia phả chi mình ngành mình…Tự nhiên, thấy quê hương sao mà thân thiết…

Lưu luyến chia tay nhau, chúng tôi cùng hẹn gặp lại nhau vào ngày giỗ Cụ Nghè mồng 4 tháng Chạp, đồng thời là ngày khuyến học của dòng họ để con cháu báo công với Tổ tiên, rồi nhận phần thưởng lấy khước của họ có người đỗ đạt đến tiến sĩ.

Sau đây là một số hình ảnh về buổi lễ:






Phạm Nguyễn
»»  Đọc tiếp

1 tháng 6, 2010

Phạm Thị Loan nữ Doanh nhân tiêu biểu

Đăng ngày Thứ Ba, tháng 6 01, 2010 bởi Phạm Đạo · 3 comments

Phạm Thị Loan nữ doanh nhân tiêu biểu

Một nữ giám đốc của 17 công ty thành viên, nữ Đại biểu Quốc hội khoá XII, nhiệm kì 2007 - 2011, Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP. Hà Nội, Chủ tịch Hiệp hội Nữ Doanh nhân Hà Nội, Phó Chủ tịch Hiệp hội thiết bị điện Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công Thương Hà Nội, Uỷ viên Thường trực Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam, … Người phụ nữ ấy chính là chị Phạm Thị Loan, Chủ tịch
HĐQT - Tổng Giám đốc tập đoàn Việt Á.
Sinh tại Hà Nội (26/11/1962), tuổi ấu thơ gắn liền với mảnh đất nghèo khó Quỳnh Lưu, Nghệ An, lớn lên là một giáo viên tại Sóc Sơn rồi sau đó trở thành một người thành đạt trong kinh doanh, người phụ nữ 48 tuổi ấy đã có cả một chặng đường đời đầy kỷ niệm. Chị là con cả trong một gia đình có 5 anh chị em, phải sớm rời ghế nhà trường, đi bán ngô, sắn, lên rừng kiếm củi, lo tiền trang trải cho cuộc sống gia đình.
Vậy mà vượt mọi chông gai, biến cố, chị Loan vẫn quyết tâm vượt qua, không bao giờ chịu thoả hiệp với sự thất bại, với cái xấu... cản trở các doanh nghiệp, để rồi đưa công ty Việt Á đi từ thành công này đến thành công khác. Câu chuyện về cuộc đời và con người của người phụ nữ này có điều gì thú vị và đáng học hỏi?
Cũng chính những tháng ngày cơ hàn ấy đã tôi luyện cho chị bản lĩnh, không lùi bước trước khó khăn nào. Sau hai năm cực nhọc, chị Loan quay trở lại học tiếp những năm tháng cuối cấp, vốn thông minh nên khi quay lại trường, chị đều đạt học sinh giỏi và được bầu làm lớp trưởng.

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ngoại ngữ khoa Anh văn năm 1986 với tấm bằng ưu, chị được phân công về làm giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Ngoại ngữ. Thế nhưng ngay cả khi có công việc ổn định này, trong đầu chị vẫn nặng trĩu câu hỏi từ thuở hàn vi: "Làm cách nào để thoát nghèo?".

Năm 1989, chị quyết định rời bục giảng để về Hà Nội làm việc trong công ty xuất nhập khẩu bao bì Packexim. Ở đây chị được cử đi học khóa đào tạo do UNDP tài trợ về công nghệ bao bì tại Ấn Độ.

Được học, được tiếp xúc với những máy móc thiết bị tiên tiến chị Loan lại khát khao có thể áp dụng những tiến bộ kỹ thuật này để phát triển ngành bao bì của nước nhà. Năm 1991, sau cuộc gặp gỡ vô tình với đại diện Hyundai, Hàn Quốc, chị nhận lời làm nhân viên bán hàng cho hãng này.

Đây là thời điểm chị phát huy hết khả năng của mình trong lĩnh vực kinh doanh. Không chỉ kim ngạch bán hàng cao nhất văn phòng đại diện của hãng (73%), chị còn đảm nhiệm nhiều dự án lớn như đường dây 500KV có hợp đồng trên 50 triệu USD, đường ống dẫn khí Bà Rịa - Vũng Tàu trên 70 triệu USD... Ngoài ra, chị còn tham gia bán hàng cho các ngành khác như xi măng, sắt thép, hóa chất và các thiết bị khác...

Thế nhưng ngay cả khi được lãnh đạo tín nhiệm, khách hàng tin tưởng chị vẫn băn khoăn với một suy nghĩ rằng: "Dù sao mình vẫn đang làm giàu cho người khác". Rồi ý tưởng thành lập một cơ sở sản xuất cung ứng thiết bị điện lóe lên trong đầu. Sau nhiều ngày trăn trở lên kế hoạch, chị Loan
rủ bạn bè chung vốn và cái tên Công ty TNHH Thương mại Việt Á được chào đời năm 1995.

Nữ đại biểu Quốc hội của Thành phố Hà Nội chị Phạm Thị Loan được biết đến như một gương nữ doanh nhân tiêu biểu với hành trình vượt qua cái nghèo để khẳng định mình trong xã hội. Với vốn liếng chỉ vỏn vẹn gần 100 triệu đồng, sau vài năm hoạt động, bằng sự chèo lái tài tình của mình, chị đã trở thành một nữ giám đốc có tên tuổi và là chủ tập đoàn với trên 2.000 nhân viên, 17 công ty thành viên, 6 nhà máy và nhiều văn phòng đại diện sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết bị, dây cáp điện, cơ khí, nhựa...

Ở độ tuổi gần 50, chị vẫn giữ được vẻ đẹp mặn mà, đằm thắm của một người phụ nữ thành đạt. Thế nhưng khi tiếp xúc, người ta vẫn cảm nhận rất rõ có những nỗi niềm băn khoăn trăn trở ở chị. Cái trăn trở của một nữ Đại biểu Quốc hội luôn muốn đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ.

Chị cho rằng, dù ở Việt Nam đã có Luật Bình đẳng giới nhưng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn thể hiện khá rõ trên nhiều mặt, nhất là trong hoạt động kinh doanh. Tại các doanh nghiệp lớn hiện nay, kể cả doanh nghiệp Nhà nước lẫn tư nhân, có rất ít phụ nữ ngồi ở vị trí lãnh đạo các cấp.

Điều kiện phát huy sức sáng tạo của lao động nữ còn hạn chế, ít có cơ hội học tập để thăng tiến. Họ lại bận sinh đẻ, nuôi con, nội trợ gia đình. Tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội vẫn còn nặng nề… Đó cũng là những nguyên nhân khiến thu nhập của lao động nữ luôn thấp hơn nam giới.

Do vậy, để phụ nữ được bình đẳng với nam giới thì người phụ nữ phải tự vượt lên trên bản thân, làm tốt cả hai vai - công việc và gia đình.
Hiện tại, công việc của chị đỡ vất vả hơn trước. Chị tiết lộ, việc phân cấp ủy quyền hợp lý và ứng dụng phần mềm tiên tiến, quản trị thông qua hình thức online nên cũng tiết kiệm được thời gian hơn. Bởi vậy, chị vẫn có thể “phân thân” lúc làm đại biểu Quốc hội, lúc làm Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP. Hà Nội, lúc làm phó Chủ tịch Hiệp hội thiết bị điện Việt Nam, …
Đặc biệt, công việc dày đặc, lịch họp Quốc hội có khi kín cả tuần nhưng chị vẫn sắp xếp thời gian cho thơ phú. Tài ngâm thơ và khả năng kể chuyện của chị được nhiều đồng nghiệp thán phục. Tham dự các kỳ họp Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân TP. Hà Nội chị đều phát biểu những quan điểm, chính kiến sâu sắc của mình.
Trong kỳ họp lần thứ bảy, QH khoá XII, Đại biểu Phạm Thị Loan có những quan điểm, ví dụ như: - Sáng 21/5, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi). Nhiều ý kiến cho rằng, cần có qui định về lãi suất cơ bản, bởi vì lãi suất cơ bản là công cụ để điều tiết kinh tế vĩ mô... Đại biểu Loan khẳng định, không thể bỏ lãi suất cơ bản bởi đây là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô... Việc sử dụng dự trữ ngoại hối vào mục đích chi tiêu thuộc phạm vi ngân sách cần thiết phải do Quốc hội quyết định, để bảo đảm đúng chức năng, nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước
- Gói kích cầu của Chính phủ chỉ có lợi và tập trung cho những doanh nghiệp, đơn vị đang hoạt động, sản xuất kinh doanh tốt, có tài sản thế chấp. Như vậy, doanh nghiệp nào đang hoạt động tốt sẽ phát triển hơn còn những doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn, không có tài sản thế chấp sẽ không tiếp cận được gói kích cầu. Đại biểu Loan kiến nghị, Chính phủ cần có chiến lược nghiên cứu để các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh được tiếp cận được với nguồn vốn này. Đại biểu Loan cho rằng vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô cần được ưu tiên và kiến nghị Chính phủ cần có chính sách kinh tế vĩ mô bền vững, lâu dài và đồng bộ để tránh tình trạng ứng phó, mỗi năm lại thay đổi chiến lược phát triển kinh tế. Chính phủ cần quan tâm đến tái cấu trúc nền kinh tế và có chính sách phù hợp...
Nhìn chị, chẳng ai nghĩ rằng, người đàn bà đẹp này đã có những bước bứt phá ngoạn mục để vượt qua trở ngại. Đấy là những đêm mất ngủ khi thương trường biến động về giá cả, chính sách thuế thay đổi thường xuyên, khách hàng chưa chuộng các sản phẩm nội khiến cho công việc tìm đầu ra gặp khó khăn...

Mệt mỏi, đã có có lúc chị Loan muốn buông xuôi tất cả, nhưng rồi ký ức nghèo lại thôi thúc, chị lại gồng mình vượt lên. Bí quyết giúp chị thành công chính là xây dựng được nền văn hóa doanh nghiệp mà ở đó đội ngũ nhân viên yêu thương nhau như anh em một nhà.

Khi nhắc đến mái ấm gia đình, mắt chị ánh lên niềm hạnh phúc khó tả, hai vợ chồng đều là doanh nhân nên niềm vui được nhân lên, gánh nặng lo toan giảm đi một nửa. Đối với chị, hạnh phúc nhất là được nhìn thấy con cái trưởng thành. Cậu con trai cả đang du học ngành kinh tế ở London - Anh, cậu út đang học thiết kế thời trang của một trường liên kết với Australia.
Chị Phạm Thị Loan đã đạt Những giải thưởng: - Giải Bông Hồng Vàng - Giải Doanh nhân ASEAN tiêu biểu - Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu - Được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen
Ngoài những công việc là Chủ tịch HĐQT - Tổng Giám đốc tập đoàn Việt Á, Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP. Hà Nội, Chủ tịch Hiệp hội Nữ Doanh nhân Hà Nội, Phó Chủ tịch Hiệp hội thiết bị điện Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công Thương Hà Nội … chị Loan còn làm nhiều công tác từ thiện, đối với họ Phạm Việt Nam, chị là Uỷ viên Thường trực Ban Liên lạc, chị cũng có cái tâm trong sang, có nhiều đóng góp cho dòng họ.
Chị Phạm Thị Loan là nữ doanh nhân tiêu biểu, chị có trí tuệ sắc sảo, một nghị lực mạnh mẽ, một cái tâm trong sáng và trên hết là niềm đam mê công việc, chị là người phụ nữ có ba chữ T: Tài, Tâm và Tầm.

Phạm Đình Điểu - Tổng hợp
»»  Đọc tiếp
 
Trang web của BLL Họ Phạm Việt Nam chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 2/2005. Xem phiên bản cũ tại đây
Vui lòng để liên kết về nguồn tin nếu bạn xuất bản lại thông tin trên trang web này.


Trang web được xây dựng từ nền tảng Blogger.com, cung cấp bởi