Thư kêu gọi xây dưng quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam.

Kính gửi các tổ chức, cá nhân, các nhà doanh nghiệp
cùng toàn thể bà con họ Phạm trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, các hoạt động tình nghĩa của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam cũng như của các Ban Liên lạc họ Phạm các địa phương, của các Hội đồng gia tộc các dòng họ Phạm cả nước đã có nhiều hình thức phong phú, kết quả thiết thực, cụ thể là đã khen thưởng động viên các cháu có bố hoặc mẹ họ Phạm đạt thành tích cao trong học tập và các hoạt động khác, cấp học bổng cho các cháu vượt khó vươn lên học giỏi, đồng thời trợ giúp cho các gia đình họ Phạm gặp khó khăn đặc biệt. Nhiều tổ chức, cá nhân, nhiều nhà doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã đứng ra tài trợ, đóng góp công của cho các hoạt động này, tạo nên tình cảm đồng tộc rất tốt đẹp, đúng với truyền thống văn hiến của Dân tộc ta. Xem tiếp
.

27 tháng 4, 2009

Giáo sư Phạm Thiều - một trí thức yêu nước

Đăng ngày Thứ Hai, tháng 4 27, 2009 bởi PKDuong · 1 comments


GS. Phạm Thiều (1904-1986)
Nguồn: wiki

Giáo sư Phạm Thiều sinh ngày 4 tháng 4 năm 1904 (Giáp Thân) tại làng Tràng Thân, xã Diễn Phúc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình Nho giáo nghèo nhưng giàu truyền thống yêu nước và hiếu học. Bố ông là cụ Phạm Thâm, năm 1909 đậu cử nhân được bổ nhiệm Huấn đạo ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Giáo sư lúc nhỏ theo học chữ Hán được bố kèm cặp, thi Hương khoá cuối cùng ở Huế nhưng không đậu vì bị coi là phạm trường quy, trở về quê học tiếng Pháp và học ở Trường College Vinh, thi đậu Primaire vào học Quốc học Huế, thi đậu văn học trường Cao đẳng Sư phạm Đông dương, Hà Nội.
Những năm học trường Đông Dương học xá, Giáo sư đã kết bạn và cộng tác với nhiều người có chí hướng yêu nước hoạt động chính trị, lập hội kín Hương Nam, truyền bá Quốc nĩư trong giới học sinh, sinh viên.

Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm (1927), Giáo sư được phân công vào Nam bộ dạy các trường ở Cai Lậy, Hà Tiên, Gò Công, Rạch Giá, Gia Định. Ở đây, Giáo sư truyền bá Quốc ngữ và đào tạo thanh niên nêu cao tinh thần yêu nước.

Năm 1938 ông về dạy trường Petrus-ký Sài Gòn. Ông dạy chữ Hán, tiếng Pháp và Văn chương Việt Nam. Giáo sư vừa dạy học vừa hoạt động xã hội, viết văn, viết báo cho tổ chức cách mạng.
Giáo sư có kiến thức Đông Tây Kim Cổ phong phú nên khi giảng dạy có tính thuyết phục cao. Học sinh mỗi khi nghe giảng hiểu sâu, dễ nhớ. Ông có tài minh hoạ bằng thơ ca dân tộc, bằng chữ “hiếu” chư “trung”, tức là về long yêu nước , yêu dân tộc, từ đó truyền bá Quốc ngữ và vận động thanh niên tham gia cách mạng..

Để chuẩn bị cho Cách mạng Tháng 8 – 1945, ông Huỳnh Tấn Phát thành lập Tổ báo Thanh niên Tiền phong, và cử Giáo sư Phạm Thiều làm chủ bút. Tờ báo đã thu hút hàng trăn thanh niên , sinh viên, các nhà yêu nước, trí thức và Phật giáo tham giacách mạng 1945.

Giao sư Phạm Thiều có uy tín cao trong giới thanh niên trí thức Sài Gòn nên ông Phạm Ngọc Thạch cử Giáo sư đi diễn thuyết, tuyên truyền 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh ở Bà Chiểu, Phú Nhuận, Phú Thừa. Những nơi này nhiều người nghe tin Giáo sư đến nói chuyện, đã kéo đến nghe chật cả hội trường, sân bãi. Họ rất thán phục tài hung biện của Giáo sư. và đã hưởng ứng 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh. Họ chuẩn bị giáo mác, tầm vông làm vũ khí chuẩn bị gia nhập Việt Minh để cứu nhà cứu nước, tiến tới làm cuộc cách mạng thành công ở Sài Gòn, Chợ Lớn và Nam bộ.

Khi Pháp chiếm Sài Gòn, Giáo sư theo bộ đội về miền Đông Nam Bộ và được phân công nhiều chức vụ quan trọng như: Giam đốc Trường quân chính Biên Hoà, Uỷ viên Uỷ ban Khàng chiến Hành chính Nam Bộ, Giam sđốc Sở Thông tin - tuyên truyền Nam Bộ, Trưởng phòng Hoa kiều vụ Nam Bộ, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn.

Tháng 8 năm 1954, Giáo sư tập kết ra Bắc, làm Trưởng phòng thông tin - báo chí Bộ Ngoại giao, Phó giám đốc Nha giáo dục Bộ Giáo dục, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Tiệp Khắc và Hungari.

Hết nhiệm kỳ , Giáo sư về nước , làm Trưởng ban Hán Nôm - Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Đại biểu Quôc hội khoá VI, Uỷ viên Chủ tịch đoàn Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam.

Năm 1975, Giáo sư được điều động vào Sài Gòn làm Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh.

Hơn nửa cuộc đời với bao nhiêu sức lực và trí tuệ, tâm huyến hoạt động cách mạng (1927-1986), trải qua bao nhiêu thăng trầm, biết bao sự kiện trọng đại của đất nước, Giáo sư Phạm Thiều vẫn kiên trung một long đi theo Đảng, theo Chủ nghĩa Mác – Lênin đến hơi thở cuối cùng. Ông đã để lại biết bao kỷ niệm sâu lắng trong đồng nghiệp, trong bạn bè đồng chí trong nước cũng như bạn bè đồng chí quốc tế trong suốt cuộc đời hoạt động của Người


Phạm Xuân Nam
ĐT: 04 38628830

(tham khảo thêm trang wiki)
»»  Đọc tiếp

26 tháng 4, 2009

Tướng quân Yết Kiêu - Phạm Hữu Thế

Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 4 26, 2009 bởi PKDuong · 0 comments

YẾT KIÊU (Thế kỷ XIII)

Yết Kiêu là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương).

Nhà ông rất nghèo, nên ngày ngày phải lặn lội ven sông mò cua, bắt cá. Yết Kiêu có tài bơi lặn giống như một loài thuỷ tộc. Sau này, ông là một trong năm tuỳ tướng tài giỏi và thân tín của Trần Hưng Đạo, đó là: Cao Mang, Đại Hành, Nguyễn Địa Lô, Dã Tượng và ông.

Trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông thế kỷ XIII, ông chuyên dùng tài bơi lặn của mình để xâm nhập sâu vào đội hình địch để đục thủng đánh chìm các chiến thuyền, mang lại nhiều chiến công vang dội đóng góp lớn cho các cuộc kháng chiến. Cũng bằng tài bơi lặn của mình mà ông đã nhiều lần xông pha nơi trận tiền, giữa đội hình địch để cứu nguy và bảo vệ cho chủ tướng. Yết Kiêu rất được Hưng đạo Đại vương tin yêu và trọng dụng. Đã có lần Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ướm hỏi về việc nhiều người khuyên can Đại vương hãy lấy lại ngôi vua từ ngành thứ về cho ngành trưởng (Cụ Trần Liễu thân phụ của Trần Hưng Đạo là anh của Trần Cảnh vị vua đầu tiên của Triều Trần. Chi tiết của sự việc nhiều người đã biết).


Hưng đạo Đại vương thử hỏi:

“…Khi phụ thân ta (tức Trần Liễu) sắp mất có dặn bảo ta phải lấy cho được thiên hạ, thì Người mới an lòng nhắm mắt. Nhà ngươi thấy thế nào, có nên làm thế không?..”

Yết Kiêu thưa:

“…Làm vậy tuy có phú quý nhất thời mà ô danh muôn thuở. Tôi muốn làm quan hầu cho Đại vương đến lúc già chết, chứ không muốn làm quan với ông vua bất trung…”


Khi ông mất, vua Trần truyền lập đền thờ ông ở bờ sông làng Hạ Bì quê ông

(tên nôm là làng Quát). Hội đền Quát được tổ chức long trọng và rất lớn hàng năm vào ngày 15-8 âm lịch để tưởng nhớ Yết Kiêu. Lễ hội có tục bơi thuyền chải nam, nữ. Yết Kiêu được tôn là ông tổ của ngành bơi lặn nước ta.

Ở Hải Dương, cùng với đền Quát còn có nhiều nơi thờ phụng Yết Kiêu, nhất là những nơi ông đánh trận ngày xưa. Đặc biệt tại làng chài có tên Nam Hải, thuộc xã Kênh Giang, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương cũng có một ngôi đền do nhân dân lập lên để thờ Yết Kiêu (tức Phạm Hữu Thế). Tại đây, nhân dân coi ông là người khai thiên lập địa, là vị Thành hoàng của cả xã. Vì hầu hết người dân Kênh Giang hiện nay vẫn giữ nghề sông nước, nhưng đã vươn xa hơn ra ngoài tỉnh và ra cả biển. Điều đặc biệt tại ngôi đền này còn lưu truyền được một vật vô giá, đó là chiếc mũ chiến cổ bằng đồng rất nặng của chính Yết Kiêu đội khi đi đánh trận. Lễ hội tưởng nhớ Yết Kiêu tại đây diễn ra vào 15- Giêng âm lịch hàng năm, cũng thu hút rất đông du khách thập phương tìm về tham dự.


Về danh tướng Yết Kiêu – Phạm Hữu Thế, đời sau có thơ vịnh rằng:

“Hồ Hải xông pha tỏ ý mình

Không nề lặn lội cứu sinh linh

Đáy nước khoan thuyền bắt Bá Linh

Cướp vía Thoát Hoan khi đắc báo

Giáp oai Hưng Đạo lúc hành binh

Một mai phá giặc thành công lớn

Rạng vẻ trời Nam một tướng tinh”.


Giai thoại, truyền thuyết
về tướng quân Yết Kiêu-Phạm Hữu Thế

Ai trong số những người họ Phạm chúng ta cũng luôn tự hào về tướng quân Yết Kiêu-Phạm Hữu Thế. Một vị tướng tài giỏi của Nhà Trần, một gia nô hết mực trung thành của Trần Hưng Đạo.

Trên địa bàn tỉnh Hải Dương còn lưu truyền một số giai thoại, truyền thuyết, ca ngợi công đức và tài năng của ông, xin trân trọng giới thiệu với bà con trong dòng tộc để chúng ta thêm tự hào về một thuở cha ông.

1. Trâu thần và Yết Kiêu

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê cha (cụ Phạm Hữu Hiệu) ở làng Hạ Bì, còn gọi là làng Quát ( xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay). Nhưng quê mẹ (cụ Vũ Thị Duyên) lại ở Lôi Động, xã Tân An, huyện Thanh Hà cùng tỉnh. Bố làm nghề đánh cá. Nhà nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ Phạm Hữu Thế đã phải nối nghiệp bố lăn lộn trên sông nước, kiếm ăn nuôi mẹ. Truyền thuyết kể nhiều về tuổi niên thiếu của ông.

Một hôm, về Lôi Động, ông đi gánh nước, thấy hai con trâu một đen một trắng húc nhau chí mạng. Con trâu đen thua nhưng cuc, đánh sừng rất hiểm. Con trâu trắng phi phàm, húc khỏe nhưng ra đòn nhởn nhơ. Vốn có sức khỏe vật được trâu, Hữu Thế hạ đôi thùng gánh nước, dùng đòn ống vụt vài miếng thượng hạ. Trâu đen dính đòn chạy re, lao vào làng. Trâu trắng né đòn như người, một cú xiên rất hiểm làm trâu trắng ngã lăn và kỳ lạ thay tan thành ánh nắng mờ ảo rồi biến mất. Chỗ đất trâu đứng tìm thấy hai chiếc lông. Cầm lên ngắm, tự nhiên Hữu Thế thấy máu bừng lên mặt. Ông chạy ra ao, lao xuống nước, nước rẽ đôi, lên bờ thấy lông không ướt, có lẽ nó cũng muốn tan trong nắng. Hữu Thế vội nuốt vào bụng. Từ đó thân thể cường tráng, trí lực phi thường, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng (Nhập thủy như phúc bình địa).

Đêm ấy về nhà, ông kể với mẹ. Vũ Nương bảo đó là chuyện đại cát. Hai mẹ con đều mơ một giấc mơ hệt nhau. Sáng ra kể, xóm làng đều cho là lạ.Giấc mơ đó là, hai mẹ con được đón một đôi trai thanh gái lịch, họ vào nhà Vũ Nương, vách đất, nền đất biến thành lâu đài. Cái ao dào dạt sóng vỗ thành con sông dài tít tắp. Trời không trăng vẫn rực sáng. Ở gốc xoan, một con trâu trắng thừng xuyên mũi buộc chặt gốc cây. Hữu Thế dụi mắt bảo mẹ: “Đúng con trâu sáng con gặp đây”. Người con trai và cô gái bảo: “Ta là Ngưu Lang và Chức Nữ, nay dịp Ngâu chúng ta gặp nhau, không chăn trâu cho trời được, phải buộc mũi không nó đi khắp bầu trời biết đâu mà tìm”. Vũ Nương hỏi: “Chúng tôi ở đâu?”. Ngưu Lang bảo: “Lúc sáng tôi đi tìm trâu gặp con trai bà, con bà không làm hại trâu. Tôi muốn mời hai mẹ con bà lên trời chơi để trả ơn. Đây là đào tiên vườn Tây Vương Mẫu, tôi biếu bà một giỏ. Còn con trai bà sau này sẽ được lưu danh trong quốc sử vì có nhiều công lao giúp nước”. Hữu Thế tò mò hỏi: “Sông gì sáng thế?”. Người con trai bảo : “Cậu sẽ nổi danh vì sông nước mà không biết sông này ư!”. Nói rồi người con trai vỗ tay cho con sông cuộn sóng cao ngất: “Đó là sông Ngân Hà. Ta sẽ còn bảo trâu thần, cày thần xuống giúp đất Bàng Hà sau vài bốn trăm năm nữa”. Chợt trên sông Ngân rợp tiếng quạ kêu. Chúng vừa bay đầy trời vừa đan kết thành cây cầu Ô Thước. Ngưu Lang nhẹ nhàng bảo Chức Nữ: “Thôi ta về”. Cô gái mỉm cười đi theo, đằng sau là con trâu trắng. Thế là tan giấc mộng.


2. Làm tướng đánh giặc

Tài năng Hữu Thế ngày một nổi tiếng. Trần Hưng Đạo trọng dụng và đặt tên là Yết Kiêu. Cùng với Dã Tượng là tướng tài lục quân, Yết Kiêu là tướng sông nước. Hai ông được Trần Hưng Đạo coi là gia nô, cận vệ trung thành, tài trí và mưu lược. Có phen chặn giặc ở biên giới, địch mạnh ta phải lui. Hưng Đạo vương định lui quân theo đường chân núi, Dã Tượng can vì đoán có quân Nguyên mai phục. Song rút đường sông thì biết tìm đường nào? Yết Kiêu đi dò đường từ hôm trước đã đợi ở bãi Tân. Khi Trần Hưng Đạo quay khỏi núi về đường thủy trời đã mờ tối, nhìn bến nước mờ ảo vẫn có con thuyền nhỏ đứng đợi và sau đó đưa Vương rút lui an toàn. Kỵ binh giặc Nguyên không hiểu quân Trần có tài thăng thiên hay là độn thổ nữa. Đại vương Hưng Đạo cả mừng mà rằng: “Chim Hồng hộc bay được cao và xa là nhờ 6 cái trụ lông cánh, nếu không khác gì chim thường. Yết Kiêu, Dã Tượng là cánh chim hồng hộc của ta”.

Giữa Trần Liễu (phụ thân Trần Hưng Đạo) và em là Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông) có mối bất hòa lớn do Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu nhường vợ cho Trần Cảnh. Trần Liễu đã nói với Trần Hưng Đạo là phải vì cha mà lấy thiên hạ. Khi thế nước lung lay, quyền bính quân quốc đều nằm ở trong tay mình, con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng khuyên cha thực hiện ý đồ của ông nội. Ý đã quyết, nhưng Trần Hưng Đạo vẫn muốn thử lòng 2 gia nô cật ruột là Yết Kiêu và Dã Tượng, cả hai đều can.


Yết Kiêu có công lớn trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên, được vua Trần phong tặng: “Trần triều Hữu tướng Đệ nhất bộ đô soái thủy quân, Tước hầu”.


Chuyện đánh giặc của Yết Kiêu được dân làng Lôi Động kể rất nhiều. Người người còn nhớ mãi chuyện ông dùng tài lặn đánh đắm thuyền giặc, bị bắt còn lừa được giặc nhảy xuống sông thoát….Lần ấy, ông có nhiệm vụ khóa đuôi một cuộc hành quân đường thủy. Thuyền lương đi chậm quá, ngoặt sang khúc sông khác thì thuyền địch đến. Những tên giặc Nguyên mình trần đầu trọc, thấy thuyền Yết Kiêu chỉ có một mình ông, chúng hò nhau đuổi hòng bắt sống ông.Chúng hí hố reo mừng, cá tươi, thịt béo, rượu nồng ngả ra kín đặc quanh Yết Kiêu. Bất ngờ, ông xuống tấn khiến thuyền lật úp. Quân Nguyên chờ mài không thấy ông nổi lên, rà đáy sông, buông lưới vẫn không thấy gì. Về đến quân doanh nhà Trần, ông mới tươi cười kể: Lúc đó có con cá chép cực lớn lượn qua, ông đã leo lên mình cá, bơi nhanh thoát ra khỏi vòng vây. Từ khi có hai chiếc lông trâu của Ngưu Lang, Yết Kiêu có tài bầu bạn với cá nước như với người.

Ở quê Hạ Bì, dân làng đã làm con cá chép bằng gỗ quý, mình dài 1m20, giữa thân đường kính 28cm, đục rỗng. Vây, vẩy được cách điệu bằng các hoa văn trang trí sinh động. Đầu cá to, râu dài vắt hai bên mép, miệng há to vểnh lên trông rất ngộ nghĩnh và độc đáo.


3. Với công chúa nhà Nguyên

Yết Kiêu từng tháp tùng đoàn sứ bộ sang cống nhà Nguyên. Vì phục tài, quý đức trung hiền của Yết Kiêu mà vua Nguyên bỏ cả hiềm khích, cho công chúa và chục nàng hầu đến dinh sứ bộ để hầu hạ từng người. Vua Nguyên mật lệnh cho công chúa phải có con trai với tướng nhà Trần và tìm cách nếu có thể thì giữ chân Yết Kiêu lại. Éo le thay, Yết Kiêu thì vô tình mà công chúa thì hữu ý. Nàng cảm phục người con trai đất Bàng Hà, rồi đem lòng yêu thương, thầm nguyện theo hầu chăn gối…Sự tình chẳng ai hay, đoàn sứ bộ vẫn làm tròn phận sự rồi mãn hạn ra về. Yết Kiêu lại tháp tùng đoàn chu đáo và cẩn trọng…Công chúa nhà Nguyên đâm nhớ thương, tủi hờn, oán vua cha, trách thân trách phận. Thế rồi, nàng mặt mày ủ ê, sầu thảm…


Những vần thơ được lưu truyền đến ngày nay, tương truyền được công chúa nhà Nguyên ngâm ngợi và thêu vào khăn áo gửi theo đoàn sứ bộ Đại Việt:

Độc thượng giang lâu tứ liễu nhiên
Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên
Đồng lai vọng nguyệt nhân hà xứ
Phong cảnh y hy tự khứ niên.

Cao lão ở làng Lôi Động phỏng dịch là:

Lên lầu dạ thấy bồi hồi
Trăng soi bóng nước, nước trời hòa nhau
Cùng ta thưởng nguyệt đêm nao
Bây giờ đã ở phương nào, người ơi ?!

Và lại nữa:

Dục biệt khiên Lang Y
Lang kim đáo hà xứ
Bất hận quy lai trì
Mạc hướng lâm cùng khứ.

Có lời dịch là:


Dứt áo phút ly biệt
Thiếp hỏi chàng đi đâu
Chẳng hận về sai hẹn
Chỉ mong chớ phụ nhau.

Rồi công chúa nhà Nguyên ốm to. Vua Nguyên cuống lên, ra chỉ để công chúa sang thăm Đại Việt, cầu hôn Yết Kiêu. Sang đến vùng biên giới (Móng Cái bây giờ) thì nàng được tin Yết Kiêu đã tạ thế. Nàng bèn sai lập đàn để cầu siêu cho “ linh hồn”Yết Kiêu tịnh độ. Lại tự lập đàn cầu siêu cho mình, rồi công chúa quyên sinh trên đất Đại Việt…Đáng thương cho công chúa nhà Nguyên, nàng có biết đâu, cái ngón “mỹ nhân kế” của vua cha, sang Đại Việt gặp phải người sắt đá, anh hùng…đâu có lụy nữ nhi thường tình mà mắc vào bẫy, sa vào mưu chước hậu chiến của giặc Nguyên. Yết Kiêu nghe tin, cũng thật thương cho người con gái đài các cao sang mà nhẹ dạ.

Đời sau, ở đền Quát (nơi thờ Yết Kiêu đến bây giờ) dân làng cũng lấy đá tạc 9 nàng hầu và 2 vệ sĩ để thờ vọng hương hồn người đã trao mối chân tình với Yết Kiêu. Thực ra, có lẽ do xuất thân từ thường dân, chức phận gia nô, nên sử sách không ghi nhiều về Yết Kiêu (?!). Nhưng đối với nhân dân, tướng quân Yết Kiêu-Phạm Hữu Thế sống trong huyền thoại và dã sử, sống mãi trong lòng dân muôn đời. Những câu chuyện trên đây là minh chứng cho nhận định ấy và được truyền bá rộng rãi nơi quê hương ông và cả nững nơi ông đã từng đánh giặc giữ nước./.


PHẠM VĂN CHỨC
Đài PT-TH tỉnh Hải Dương; ĐT: 0982.199.309 ; 03206.259.309
(Ghi lại từ các câu chuyện dân gian kể ở Hải Dương)
»»  Đọc tiếp

25 tháng 4, 2009

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 4 25, 2009 bởi Unknown · 0 comments


9h00 sáng nay tại tư gia ông Phạm Văn Căn đã có cuộc họp của BLL họ Phạm TP. Hồ Chí Minh. Tại cuộc họp này có Trưởng BLL họ Phạm VN – Phạm Khắc Di và TTK BLL ho Phạm VN – Phạm Đạo tới dự.

Tại cuộc họp này bác Phạm Đức Thưởng, nguyên Trưởng BLL họ Phạm TP. HCM chính thức bàn giao cho tân Trưởng ban họ Phạm TP. HCM – Phạm Văn Căn công việc cũng như các tài liệu. Cuộc họp đã nghe bác Phạm Văn Căn trình bày kế hoạch công tác sắp tới. Mọi người sôi nổi góp ý và đều thống nhất trọng tâm trước mắt là phải củng cố các Ban “chuyên môn” và tiếp tục vận động thành lập câc BLL quận huyện. Cuối buổi họp mọi người còn được xem “Kế hoạch tổ chức một cuộc hòa nhạc từ thiện của nhạc sỹ và ca sĩ họ Phạm”. Rất nhiều việc trước mắt phải làm, rất nhiều khó khăn cần khắc phục. Mọi người đều quyết tâm thực hiện kế hoạch đã đề ra.

TP.HCM, 26/04/2009
Pha Lê




»»  Đọc tiếp

Họ Phạm Thôn Dương Hồi

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 4 25, 2009 bởi Unknown · 1 comments


Họ Phạm thôn Dương Hồi
Xã Yên Thắng- huyện Y Yên - Tỉnh Nam Định.

I . Vài nét về tên thôn Dương Hồi:
Vùng đất xã Yên thắng,Yên Nhân, Yên Đồng ngày nay, từ thời xa xưa có một số thôn tên gọi chữ đầu là chữ An ( An Trung, An Hạ, An Duyệt, An Dương (Cũng có thời gian tuỳ theo các Triều Đại có một số thôn tên gọi Đồi Tam, Đồi Tây, Đồi Trung, Đồi Hạ, Đồi Thượng). Thôn Dương Hồi hiện nay, từ thế kỷ thứ XIV trở về trước đó có tên gọi An Dương (dải đất bình yên, thịnh vượng).
Khoảng những năm đầu nhà Mạc 1535: Do lũ lụt, xóm Thuỷ Nhai thuộc Đồi Tây chuyển về ở đất An Dương và sau đú đổi tên An Dương thành Dương Hồi ( ý nói dải đất hồi sinh sự thịnh vượng) Như vậy thời nhà Mạc có 3 thôn Dương Hồi, Đồi Tây và Đồi Tam( Tam Quang ngày nay). Đến thế kỷ XVIII thời Lê 1740: Đồi Tây sáp nhập vào Dương Hồi (bỏ tên Đồi Tây). Những năm đầu thế kỷ XIX nhà Nguyễn: Đồi Tam đổi thành Tam Đăng. Sau đó cụ Phạm Văn Nghị năm 1805-1881 (đỗ Hoàng Giỏp tiến sĩ năm 1836 làm quan đốc học ) xin đổi thành Tam Quang. Hiện nay năm 2009 Dương Hồi và Tam Quang thuộc xó Yên Thắng, huyện Yên, tỉnh Nam Định.
II . Họ Phạm thôn Dương Hồi :
Do từ hồi Pháp thuộc, nhiều nơi bị giặc càn quét, đốt phá,gia phả các họ đều không còn đầy đủ, thôn Dương hồi có họ Trần, họ Phan, họ Vũ, họ Nguyễn, họ Lê,…đặc biệt họ Phạm chiếm đa số và có hai dòng họ Phạm:
1. Họ Phạm Xuân:
Hiện nay có 20 hộ ở thôn, ông Phạm Xuân Thợn là tộc trưởng, có nhà thờ họ ở gần đầu thôn, khoảng 100 xuất đinh, con cháu một số ở thôn, đa số bôn ba khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước, dù ở đâu con chỏu cũng đều tham gia kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảovệ đất nước.
Họ Phạm Xuân, về Dương Hồi từ khi nào chưa rõ. Thời nhà Mạc có cụ Phạm Gia Môn sinh năm 1525, ông đỗ thám hoa khoa Đinh Sửu 1577 thời Mạc Mậu Hợp, được triều đình phong chức Binh bộ thị lang, tước Nhân Hà Bá. Cụ mất ngày 20 tháng 02 năm Nhâm Tý 1602. Cụ để lại cho đời bài thơ nôm nổi tiếng :
“ Vị bốc nhân canh biến Nghĩa sĩ trung thành tiết
Đương tham địa hữu nghi Thanh thiên bạch nhật chi
Thí văn lân Phạm thị Tử tồn như hữu phúc
Thường lự xuất chinh kì Tu đãi thái bình thời . “

2. Họ Phạm Văn:
Hiện nay có 70 hộ ở thôn, ông Phạm Văn Cương làm quyền trưởng nam thay ông Phạm Văn Cảnh định cư tại Bắc Quang Hà Giang. Có trên 100 xuất đinh đang sinh sống tại Dương Hồi và trên 300 xuất đinh làm ăn sinh sống, phát triển ở khắp mọi miền Tổ Quốc cũng như sinh sống ở nước ngoài: TrungQuốc, Liên bang Đức, Liên bang Nga, Pháp, Canada, Mỹ, Thái Lan, Newziland…
Vào thời gian cuối đời Nhà Mạc- đầu đời Nhà Lê Trung Hưng (khoảng1580-1592) Cụ Thuỷ tổ Phạm Pháp Nghiêm, vợ là Trần Thị Từ hiệu Từ Long cùng gia đình đến Lộ Hải Đông rồi sinh sống ở bến sông Quĩ ( Nghĩa Hưng) và tiếp tục thiên cư lánh nạn tại Dương Hồi. Từ đó con cháu cụ ngày một phát triển đông đúc và đúng góp công lao phụng sự đất nước: Phạm Tướng Công Truy Viễn Bá thuỵ Liên tự Đôn Hoà ( vợ Từ Mỹ), Tiền Chinh Nam Tướng Quân: Hoàng Song Bá, tự Vân Minh ( vợ hiệu Từ Hoà ), Phạm Quý Công tự Hoàng Xương, phụng mệnh đi sứ Bắc Quốc ( nước Tàu)…
Nhà thờ họ Phạm Văn…được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ XVII, ở vị trí giữa thôn, Hàng năm cứ đến ngày giỗ cụ Thuỷ tổ mồmg 03 tháng11( Âm lịch ) con cháu trong thôn và sinh sống ở các nơi : Hà Nội,  Hải Phòng, Hà Giang, Thái Bình, Bắc Giang.. tập trung về lễ tổ cũng như bàn việc họ. Con cháu họ Phạm Văn…ở Dương Hồi muôn đời hướng về cội nguồn ( hiện nay đó cú 12 đời) , luôn thực hiện lời răn dạy của Tổ tiên đã ghi:

“ Trùng Tu Đường Cấu Vân Trường Tộ
Lịch Đại Tôn Diêu Thạch Bất Đan “
Nghĩa là : ” Tu tạo nhà thờ trách nhiệm muôn đời
Công trạng dòng họ khắc đá không phai “


Tháng 04 năm Kỷ Sửu 2009-Hậu duệ: Phạm Văn Hồng
ĐT 0912305918-04 38260660


»»  Đọc tiếp

Những Văn Kiện Đại Hội Lần Thứ Nhất CLB Doanh Nhân Họ Phạm Việt Nam

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 4 25, 2009 bởi PK.Dương · 0 comments

Ngày 29-3-2009, được sự chấp thuận của Thường trực BLL họ Phạm Việt Nam, Đại hội lần thứ nhất CLB DNHPVN đã được tiến hành trọng thể tại Hội trường Khách sạn Sông Nhuệ, Hà Đông, Thủ đô Hà Nội.

Về dự Đại hội có gần 100 đại biểu là người họ Phạm hiện đang đảm trách chức danh Chủ tịch HĐGT, Tổng giám đốc, Giám đốc,… của một số doanh nghiệp.

Sau đây là toàn bộ Văn Kiện của Đại Hội:

1. THƯ NGỎ

2. QUYẾT ĐỊNH THÀNH LẬP

3. BÀI PHÁT BIỂU KHAI MẠC ĐẠI HỘI

4. QUY CHẾ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CLB

5. NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ NHẤT



»»  Đọc tiếp

23 tháng 4, 2009

Chỉ dẫn đường về thăm di tích lịch sử văn hóa Đình Ngoại, Xã Thanh Liệt, Hà Nội

Đăng ngày Thứ Năm, tháng 4 23, 2009 bởi Unknown · 0 comments






Ghi chú: Sơ đồ này lấy từ trang wikimapia.org
(Xem vùng Đình Ngoại bằng hình ảnh trên internet,  dùng đường link: wikimapia.org/#lat=20.965527&lon=105.80997&z=15&l=0&m=a&v=2
dấu chữ thập ở tâm màn hình chính là vị trí Đình Ngoại)
Hàng năm, cứ đến 20 tháng 7 âm lịch - ngày hy sinh oanh liệt trong trận chiến chống quân xâm lược Nhà Lương của Tả tướng quân, Trưởng ban Võ của Nhà nước Vạn Xuân, Đô hồ Đại vương, Long Biên hầu Phạm Tu, Ban quản lý di tích Đình Ngoài xã Thanh Liệt Hà Nội và nhân dân trong vùng lại long trọng tổ chức lễ tưởng niệm. 
 Trong những ngày này, khách thập phương thường về dâng hương tưởng niệm tại nơi thờ phụng Người: Đình Ngoại xã Thanh Liệt – Di tích lịch sử - văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng.
Để thuận tiện trong việc hành hương về quê Tổ của bà con cô bác, chúng tôi xin nêu một số cách đi về Đình Ngoại xã Thanh Liệt để mọi người tham khảo.

Bản đồ phía nam Hà Nội
A. Nếu bà con cô bác dùng xe riêng (Ôtô, xe máy, xe đạp,...) về xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội:
- Nếu đi từ đường Nguyễn Trãi (quận Thanh Xuân gần Ngã tư Sở) theo hướng vào trung tâm Hà Nội thì rẽ phải vào đường Khương Đình, men theo đường bên phải sông Tô Lịch, đi qua Kim Giang, Đại Kim rồi đến Thanh Liệt (đi từ đầu Khương Đình khoảng 5km)

-Nếu đi từ đường Giải Phóng, thì xuôi xuống phía nam, qua Giáp Bát rẽ phải theo lối vào khu đô thị Bắc Linh Đàm, xuyên qua khu đô thị, vượt Cầu Dậu qua sông Tô Lịch rẽ trái là đến Thanh Liệt
- Nếu đi từ Hà Đông thì đi khoảng 5km qua Viện 103, theo đường 70 đến Cầu Bươu rẽ trái vào Thanh Liệt
-Nếu đi từ Văn Điển theo đường 70 đi hướng Hà Đông khoảng 5km thì rẽ phải ngay khi vừa qua Cầu Bươu, vào Thanh Liệt
 B. Nếu bà con cô bác đi bằng phương tiện vận tải công cộng: 
1. Từ ga Hà Nội

- Đi xe buýt số 6, xuống điểm dừng gần lối vào khu đô thị Bắc Linh Đàm
- Hoặc đi xe buýt số 3, 25, 32 đến bến xe Giáp Bát (đi tiếp theo B.2)
2. Từ bến Giáp Bát

- Đi xe buýt số 37 xuống điểm dừng gần UBND xã Thanh Liệt
3. Từ bến xe Mỹ Đình

- Đi xe buýt số 5 xuống điểm dừng gần Cầu Dậu
- Hoặc đi xe buýt số 16, 29 đến bến xe Giáp Bát (đi tiếp theo B.2)
- Hoặc đi xe buýt số 39 xuống điểm dừng gần Cầu Bươu
4. Từ bến xe Long Biên

- Đi xe buýt số 3 đến bến xe Giáp Bát (đi tiếp theo B.2)
- Hoặc đi xe buýt số 8 xuống xuống điểm dừng gần lối vào khu đô thị Bắc Linh Đàm
5. Từ bến xe Gia Lâm

- Đi xe buýt số 3 đến bến xe Giáp Bát (đi tiếp theo B.2)
6. Từ bến xe Lương Yên

- Đi xe buýt số 207 đến bến xe Giáp Bát (đi tiếp theo B.2)
- Đi xe buýt số 48, 207 đến bến xe Nước Ngầm (đi tiếp theo B.7)
7. Từ bến xe Nước Ngầm

- Đi xe buýt số 60 xuống điểm dừng gần Cầu Dậu
- Hoặc đi xe buýt số 39 xuống điểm dừng gần Cầu Bươu
8. Từ bến xe Hà Đông

- Đi xe buýt số 37 xuống điểm dừng gần UBND xã Thanh Liệt
- Hoặc đi xe buýt số 39 xuống điểm dừng gần Cầu Bươu
9. Từ sân bay Nội Bài

- Đi xe buýt số 17 về Long Biên (đi tiếp theo B.4.)
- Hoặc đi xe buýt số 7 về Kim Mã, đi tiếp xe buýt số 12 xuống lối đường vào khu đô thị Bắc Linh Đàm;…

 Chú ý: các xe buýt đi gần đến gần Thanh Liệt nhất là xe số 37, 39, 5, 60. Các tỉnh xa về xuống bến xe Giát Bát, Hà Đông đi xe số 37(BX Giáp Bát – BX Hà Đông) là thuận tiện nhất, vì xe này đi qua UBND xã Thanh Liệt, ngay đầu lối vào Đình Ngoại. Không đi xe số 21 vì xe này không đi qua xã Thanh Liệt.
 

C. Vào Đình Ngoại (theo hướng xuôi dòng sông Tô Lịch từ Cầu Dậu về Cầu Bươu) 
Đến xã Thanh Liệt có 3 lối vẫn thường vào Đình Ngoại, theo các mũi tên màu trắng chỉ trên sơ đồ:
- Lối rẽ bên phải cạnh đình thờ Tiên triết Chu Văn An
- Lối rẽ bên phải qua UBND xã Thanh Liệt
- Lối rẽ phải gần Cầu Bươu, phía bên trái có Cầu sắt nhỏ, rẽ phải đi theo đường lớn chừng 600m, qua gò đất cao là đến nơi.
Chú ý: đi ôtô chỉ đi theo lối thứ 3.


Tháp Bút
blog: http://hopham.blogspot.com/

»»  Đọc tiếp

22 tháng 4, 2009

Nữ anh hùng Hoàng Ngân (Phạm Thị Vân)

Đăng ngày Thứ Tư, tháng 4 22, 2009 bởi PKDuong · 0 comments


Hoàng Ngân (1921-1949)
Hoàng Ngân (1921– 17 tháng 7 năm 1949), tên thật là Phạm Thị Vân, là Bí thư Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc Việt Nam (nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) đầu tiên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm đầu tiên của báo Phụ nữ Việt Nam, một trong những người đi đầu của phong trào phụ nữ Việt Nam.

Tiểu sử: Hoàng Ngân quê gốc tại thôn Vũ Lao, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Bà sinh tra rong một gia đình tiểu thương ở phố Chavassieux (phố Quang Trung ngày nay) thành phố Hải Phòng. Cha bà là ông Phạm Trung Long rời Nam Định lên Hải Phòng lập nghiệp từ đầu thế kỷ 20.

Tham gia cách mạng: Hoàng Ngân lớn lên trong lúc phong trào chống Pháp mạnh mẽ, nhất là thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), các phong trào đòi dân sinh dân chủ diễn ra sôi nổi ở Hải Phòng. Ảnh hưởng từ hoạt động của các tổ chức ái hữu, nghiệp đoàn của công nhân học sinh, tiểu thương, trí thức... và sách báo của Đảng cộng sản được lưu hành công khai, bà đã tham gia phong trào cách mạng của thành phố. Bà tích cực tham gia tổ chức Thanh niên dân chủ và rất được tín nhiệm.

Năm 1938, Hoàng Ngân được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 17 tuổi. Từ đó, bà đi hoạt động thoát ly gia đình. Bà lãnh trách nhiệm hoạt động xây dựng cơ sở quần chúng và hướng dẫn họ đấu tranh tại nhà máy Tơ, máy Chai, chợ Sắt... Hoàng Ngân trở thành người có tài vận động quần chúng công nhân và nhân dân lao động thành phố Hải Phòng đấu tranh chống thực dân Pháp. Bà được đảm nhiệm việc liên lạc giữa Xứ uỷ Bắc Kỳ với Trung ương Đảng và là một trong những cán bộ chủ chốt của Đảng bộ Hải Phòng.


Nữ liệt sĩ Hòang Ngân (người thứ 2
hàng trên từ phải sang)
cùng đòan phụ nữ cứu quốc được
Bác Hồ tiếp tại Việt Bắc năm 1948

Hai lần vượt ngục: Ban cán sự Đảng Cộng sản Đông Dương phát động quần chúng đấu tranh chống thuế cư trú, thuế đèn, thuế nước. Ngày 30 tháng 5 năm 1939, bà cùng hơn một vạn nhân dân thành phố Hải Phòng tập trung tại ngã tư phố Bắc Ninh (nay là phố Lãn Ông) sau đó kéo lên toà Đốc Ký đấu tranh. Khi đoàn biểu tình đến sở Cẩm thì bị binh lính và cảnh sát đàn áp. Bà cùng Tô Hiệu và hàng trăm người khác bị bắt giữ. Sau ba tháng bị giam giữ, không có chứng cớ buộc tội, bà được trả tự do cùng những người bị bắt. Hoàng Ngân tiếp tục đi hoạt động cách mạng, được giao phụ trách công tác vận động phụ nữ Hải Phòng và cũng từ đây bắt đầu sự nghiệp hoạt động cho phong trào phụ nữ Việt Nam.

Trong những năm 1941-1942, Hoàng Ngân làm liên lạc cho các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Đông Dương là Trường Chinh và Hoàng Văn Thụ. Sau đó Xứ uỷ điều bà về phụ trách công tác phụ nữ ở tỉnh Hà Đông, rồi tỉnh Sơn Tây. Hoàng Ngân tham gia Ban thưòng vụ Hội phụ nữ giải phóng Bắc Kỳ.

Tháng 1 năm 1944, Hoàng Ngân dự hội nghị cán bộ ở Hà Đông. Cuộc họp đang tiến hành thì bị địch bao vây. Bà giúp các đồng đội trốn thoát, còn bản thân bị địch bắt. Bà bị kết án 12 năm tù và bị giam tại Hoả Lò (Hà Nội). Trong tù, Hoàng Ngân vẫn vận động anh chị em tù đấu tranh đòi cải thiện chế độ sinh hoạt, chống đàn áp, khủng bố.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Bà được các đồng đội bên ngoài bố trí cho vượt ngục. Trở về, bà được giao làm Bí thư Đoàn Phụ nữ cứu quốc Hà Nội, Thành ủy viên Đảng bộ thành phố Hà Nội.

Trong những ngày chuẩn bị tổng khởi nghĩa Hà Nội, Hoàng Ngân tổ chức đội nữ du kích Minh Khai và tham gia tổng khởi nghĩa. Bà được nam nữ thanh niên thủ đô thời đó gọi bằng tên thân mật là chị Sáu.

Đi đầu phong trào phụ nữ Việt Nam: Năm 1946, Hoàng Ngân được Xứ ủy Bắc Kỳ cử làm Bí thư Đoàn Phụ nữ cứu quốc tỉnh Hải Dương. Tại đây Hoàng Ngân tích cực củng cố cơ sở, huấn luyện cán bộ và Hải Dương được đánh giá là địa phương có phong trào phụ nữ mạnh.

Đầu năm 1947, Hoàng Ngân được bầu vào Khu uỷ khu 3, phụ trách công tác dân vận và khu hội phụ nữ. Cuối năm đó, bà được cử làm Bí thư trung ương lâm thời Đoàn Phụ nữ cứu quốc Việt Nam.

Trong Hội nghị cán bộ phụ vận toàn miền Bắc cuối năm 1947, bà được bầu làm Bí thư Ban Phụ nữ cứu quốc Bắc bộ.

Từ năm 1948 tới năm 1949, kháng chiến chống Pháp vào giai đoạn gay go ác liệt, cơ quan Hội liên hiệp phụ nữ luôn phải di chuyển đi nhiều tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang, Hà Nam... Hoàng Ngân vẫn xông xáo lo toan, duy trì liên lạc và đẩy mạnh hoạt động của phong trào phụ nữ kháng chiến.

Tờ báo Phụ nữ số 1 và số 2 phát hành đầu năm 1948 có sự đóng góp lớn của bà. Bài xã luận đầu tiên của bà đăng trang 2 số báo đầu tiên trở thành bài viết nổi tiếng đối với phụ nữ tham gia kháng chiến lúc đó.

Do bệnh tật dày vò, ngày 17 tháng 7 năm 1949, sau một cơn đau nặng, Hoàng Ngân đã qua đời tại Việt Bắc khi mới 28 tuổi.

Đời sau nhớ mãi: Sau khi bà mất, ngọn đồi, nơi cơ quan Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc Việt Nam đặt trụ sở, được mang tên Hoàng Ngân. Các tỉnh đội Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình đã tổ chức những đội du kích Hoàng Ngân. Tỉnh hội Hưng Yên lập một trường đào tạo cán bộ phụ nữ mang tên bà.

Hoàng Ngân được phong tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất. Bà được chôn cất tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, sau này được đưa về nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, nơi chôn cất các nhân vật lãnh đạo cao cấp.

Ngày 3/3/2008, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã tổ chức truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Hoàng Ngân theo Quyết định số 1481/2007/QĐ/CTN ngày 5 tháng 12 năm 2007 của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết về việc truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Phạm Thị Vân (Hoàng Ngân).

Các thành phố: Nam Định - quê hương bà, Hải Phòng – nơi bà sinh và trưởng thành, và Hà Nội đều có phố mang tên Hoàng Ngân.

Ghi thêm: Ông Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) cũng sinh năm 1921 tại Nam Định (xã Liên Minh, huyện Vụ Bản).

Theo: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_Ng%C3%A2n

Xem thêm bài: Hoàng Ngân-người con gái họ Phạm được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT
http://www.hopham.org/2008/03/hoang-ngan-nguoi-con-gai-ho-pham-uoc.html

Xem tiếp bài: “Nữ liệt sĩ Hoàng Ngân: Người cộng sản trung kiên” trên http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=26292
»»  Đọc tiếp

21 tháng 4, 2009

Danh sách Ban chủ nhiệm CLB doanh nhân họ Phạm Việt Nam

Đăng ngày Thứ Ba, tháng 4 21, 2009 bởi PK.Dương · 0 comments

Danh sách 30 vị trong Ban chủ nhiệm CLB doanh nhân họ Phạm Việt Nam
nhiệm kỳ khóa I- 3 năm 2009 – 2011


1. Ô. Phạm Thanh Bình: Chủ tịch HĐQT Cty CP Thanh Bình, Tp Biên Hoà, Đồng Nai

2. Ô. Phạm Thiện Căn: Chủ tịch HĐQT Cty Kính KALA, Hải Phòng

3. Ô. Phạm Văn Căn: canphamvan@yahoo.com - GĐ Cty TNHH Phẫu thuật thẩm mỹ Y Ngọc, Tp Hồ Chí Minh; ĐT: 08.38237800 - 0903691108

4. Ô. Phạm Hồng Điệp: Tổng GĐ Tập đoàn SHINEC, Hải Phòng

5. Ô. Phạm Đình Điểu: GĐ Trung tâm Tư vấn và Chuyển giao tiêu chuẩn, chất lượng – CITEC, Hà Nội

6. Ô. Phạm Minh Đức: Tổng GĐ Cty CP Đầu tư xây dựng Bình Chánh, Tp Hồ Chí Minh

7. Ô. Phạm Duy Hạnh: GĐ Cty May Nam Định

8. Bà Phạm Thị Diệu Hiền: GĐ Cty CP Thuỷ sản Bình An và Cty TNHH Xây dựng, Thương mại Diệu Hiền, Cần Thơ

9. Ô. Phạm Quang Hoàn: Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng GĐ Tập đoàn Công nghiệp Thiên Phú, Hà Nội

10. Ô. Phạm Văn Hoàng: GĐ Cty CP Cơ khí và Xây lắp An Ngãi, Quảng Ngãi

11. Ô. Phạm Đình Hoè: GĐ Cty Xi măng Tam Điệp, Ninh Bình

12. Ô. Phạm Xuân Hồng: Tổng GĐ Tổng Cty May Sài Gòn 3, Tp Hồ Chí Minh

13. Ô. Phạm Hùng: Tổng GĐ Tổng Cty lắp máy Việt Nam, Hà Nội

14. Bà Phạm Thị Mỹ Lệ: GĐ Cty TNHH Mỹ Lệ, Bình Phước

15. Bà Phạm Thị Loan: GĐ Cty CP Tập đoàn Đầu tư - Thương mại - Công nghiệp Việt Á, Hà Nội

16. Bà Phạm Thị Loan: GĐ Trung tâm Ngoại ngữ 33 Nhà Chung, Hà Nội

17. Ô. Phạm Quang Mạnh: GĐ Cty Mạnh Linh, Điện Biên

18. Bà Phạm Thị Ngọc Minh: GĐ Cty TNHH Bảo Quang, Bát Tràng, Hà Nội

19. Ô. Phạm Công Nhân: Chủ tịch HĐTV GĐ Cty TNHH Sơn Lâm, Hà Giang

20. Ô. Phạm Vinh Quang: GĐ Cty Đường Sáng, Hà Nội

21. Ô. Phạm Mạnh Thắng: GĐ Ngân hàng CP Ngoại thương (VCB) Chi nhánh Hải Dương

22. Ô. Phạm Minh Thắng: GĐ Cty Môi trường Đô thị Đà Nẵng

23. Ô. Phạm Đình Thanh: Phó GĐ Cty TNHH Tuấn Hiền, Thanh Hoá

24. Ô. Phạm Minh Thảo: GĐ Cty CP Than Núi Béo, Quảng Ninh

25. Ô. Phạm Văn Thể: Chủ tịch Tập đoàn Hoàng Hà, Quảng Ninh

26. Ô. Phạm Đình Trọng: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Dạy nghề Việt Đức, Thái Bình

27. Ô. Phạm Văn Trung: Tổng GĐ Xí nghiệp tập thể Bình An, Hải Phòng

28. Ô. Phạm Quang Vinh: Chủ tịch HĐQT Spa Resort Tiên Lãng, Hải Phòng

29. Ô. Phạm Nhật Vượng: Tổng GĐ Cty CP Vincom, Hà Nội

30. Ô. Phạm Thiện Tài: Chủ nhiệm Hợp tác xã Thành Công, Hà Nội

--------------------------------------------------------------------------------------

Ông Phạm Quang Hoàn-Chủ nhiệm CLB DNHPVN khóa I


10 vị trong Ban thường trực của Ban chủ nhiệm CLB

Chủ nhiệm: Ô. Phạm Quang Hoàn

- 4 Phó Chủ nhiệm: Ô. Phạm Nhật Vượng, Bà Phạm Thị Loan (Tập đoàn Việt Á), Ô. Phạm Thiện Căn, Ô. Phạm Văn Căn: canphamvan@yahoo,com ĐT: 08.38237800 - 0903691108

- 1 Tổng thư ký: Ô. Phạm Đình Điểu pdinhdieu@gmail.com Tel: 04. 6251 2192; Fax: 04. 6281 1400; Mobile: 090.321 0030

- 4 Ủy viên: Ô. Phạm Hùng, Ô. Phạm Hồng Điệp, Ô. Phạm Văn Thể, Ô. Phạm Mạnh Thắng

Xin thông báo để toàn thể bà con họ Phạm Việt Nam biết. Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật địa chỉ thư điện tử (E-mail) và số điện thoại của từng vị để bà con tiện liên lạc.

Phạm Đình Điểu
Tổng thư ký CLB
»»  Đọc tiếp

20 tháng 4, 2009

Họ Phạm Vũ ở Đôn Thư khánh thành Từ đường

Đăng ngày Thứ Hai, tháng 4 20, 2009 bởi Unknown · 0 comments

Ngày 18 tháng 3 năm Kỷ Sửu vừa qua, Hội đồng gia tộc họ Phạm Vũ ở Đôn Thư, Thanh Oai Hà Nội đã tổ chức khánh thành Từ đường và biểu dương con ngoan trò giỏi của dòng ho nhân ngày giỗ Tổ . Đông đảo bà con cô bác, đại diện cho hơn 1000 xuất đinh của dòng họ từ khắp các vùng miền của đất nước đã về dự.

Các đoàn đại biểu dòng họ anh em cùng cội nguồn dòng họ xa xưa từ Thanh Hoá chuyển cư ra Hà Nội cũng về dâng lễ giỗ Tổ : Dòng họ Phạm Đông Ngạc do ông Phạm Lâm Trúc dẫn đầu, Dòng họ Phạm ơ ở Bát Tràng do ông Phạm Văn Mai dẫn đầu.




Đến dự lễ khánh thành Từ đường họ Phạm Vũ ở Đôn Thư còn có đại diện chính quyền địa phương và đại biểu một số dòng họ cùng sinh sống trên đất Đôn Thư . Ông Phạm Cầu – Phó tổng thư ký thường trực - đại diện Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam, (*) và Đoàn đại biểu Ban liên lạc họ Phạm thành phố Hà Nội do ông Phạm Hoan - Trưởng BLL họ Phạm Hà Nội dẫn đầu cũng đã về dự.

Ngay từ sáng sớm , bà con cô bác họ Phạm Vũ đã hân hoan tề tựu rất đông trong khuôn viên rộng lớn, hoành tráng của Từ đường mới xây dựng lại, mặc dù công trình lịch sử văn hoá - tâm linh này còn phải hoàn thiện thêm theo thiết kế ban đầu..

Hôm nay, cả Nhà thờ Tổ, Nhà tiền tế , Nhà khách ,… của Từ đường đều được trang trí cờ hoa rực rỡ. Từ lối vào Từ đường đến Nhà khách của Từ đường đã được HĐGT đưa ra những bảng biểu về sự đóng góp công đức thành tâm hướng về cội nguồn của các thành viên dòng họ để xây dựng lại Từ đường . Trong Nhà khách đã được trưng bày những sơ đồ phát triểu rực rỡ của dòng họ Phạm Vũ ở Đôn Thư với 64 chi nhánh từ nhiều đời nay..




Trước khi bước vào phần lễ chính, ông đại diện HĐGT họ Phạm Vũ Đôn Thư đã đọc lời phát biểu , biểu dương các chi họ, gia đình và cá nhân của dòng họ đã có những đóng góp cụ thể cho việc xây dựng lại Từ đường

Sau hơn 3 giờ thực hiện nghi thức Tế Tổ nghiêm trang, thành kính, uyển chuyển trong tiếng chiêng trỗng rộn rã của hai đội tế nam nữ, Ban khuyến học của dòng họ đã tổ chức phát thưởng cho hơn 30 cháu đạt danh hiệu “con ngoan trò giỏi của dòng họ” năm học 2008-2009 vừa qua.
Lễ khánh thành Từ đường và giỗ Tổ của dòng họ Phạm Vũ ở Đôn Thư đã khép lại vào lúc 12 giờ 45’ với cuộc thụ lộc đầm ấm tình cảm đồng tông đồng tộc tại chính khuôn viên của Từ đường mới được xây dựng lại.
Hữu Lâm

(*) Ông Phạm Vũ Thuyên – Phó Trưởng ban BLL họ Phạm Việt Nam cũng về dự lễ khánh thành Từ đường và giỗ Tổ dòng họ Phạm Vũ ở Đôn Thư nhưng với tư cách đại diện của Biệt chi Vũ Phạm của dòng họ Phạm Vũ ở Đôn Thư
»»  Đọc tiếp

15 tháng 4, 2009

Đạo thầy trò của Phạm Thận Duật

Đăng ngày Thứ Tư, tháng 4 15, 2009 bởi PK.Dương · 1 comments

Trong văn hoá Phương Đông, nhất là trong Nho học, Khổng tử đã đặt vị trí người thầy dạy học rất cao. Nền giáo dục phong kiến xưa lấy "Tam cương, Ngũ thường", làm phương châm chủ đạo cho đạo lý làm người. Trong 3 nhân vật Quân, Sư, Phụ, người thầy (Sư) đứng hàng thứ hai sau vua (Quân) và trên cả cha mẹ đẻ ra mình (Phụ). Với nền giáo dục đào tạo ra con người có khí tiết, có đạo đức, có nhân cách, có tri thức xã hội. Vì vậy họ đã coi công ơn của người thày có công dậy dỗ và đào tạo kẻ học nên người lớn hơn cả công ơn cha mẹ có công sinh thành ra mình.

Phạm Thận Duật được học tập trong một nền giáo dục như thế. Ông đã qua nhiều thầy học. Bắt đầu là thầy Vũ Phạm Khải ở thôn bên, dạy ông khi ông lên 9 tuổi. Dạy được 7 ngày, Vũ Phạm Khải phải lên đường vào kinh nhậm chức thì Phạm Thận Duật đến học người cậu ruột là Nguyễn Hữu Văn. Sau đó theo học thầy đồ Phạm Tư Tề là người làng, ra Xuân Trường (Nam Định) mở trường dạy học. Sau bốn năm, ông quay về học Lục Khê cư sĩ Phạm Đức Diệu, người Nộn Khê cùng huyện Yên Mô, sau này trở thành nhạc phụ của ông. Lục Khê cư sĩ nhận thấy nhiều phẩm chất tốt đẹp ở người học trò nghèo này, nên đã đưa ông đến nhờ người bạn thân là Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, người Nam Định khi ấy vừa cáo quan về quê mở trường dạy học.

Phạm Văn Nghị, người làng Tam Đăng, tổng An Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1838 đã từng làm Tri phủ Lý Nhân, Biên tu Sử quán, rồi không thiết công danh, cáo bệnh từ quan về mở trường dạy học. Trường Tam Đăng lúc bấy giờ là một trung tâm giáo dục nổi tiếng ở vùng Nam Hạ. Học trò từ khắp mọi nơi nô nức tìm đến học. Cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh gia đình và yêu quý cậu học trò nhiều đức tính tốt, cho nên Phạm Văn Nghị không những chí tình dạy bảo mà còn nuôi dưỡng cho ăn học ở ngay trong nhà, đồng thời làm bầu bạn thân thiết với người con trai cả của thầy là Phạm Đăng Giảng.

Sau nhiều năm đèn sách ở trường Tam Đăng Phạm Văn Nghị, người học trò nghèo Phạm Thận Duật đã được ảnh hưởng sâu đậm ở thầy về trí tuệ và đạo đức, về khuynh hướng tư tưởng cũng như lẽ sống. Chính vì vậy, Phạm Thận Duật có ân tình sâu nặng với người thầy đã hết lòng dạy dỗ cho ông nên người, làm nên sự nghiệp. Đạo lý thánh hiền đã hun đúc nên một con người cho dù làm quan to trong triều, vẫn không quên nghĩa thầy trò. Nhất là đối với Phạm Văn Nghị, người thầy đã tạo dựng nên cuộc đời ông, ông coi như cha nuôi, cha đẻ tinh thần. Với vợ thầy, ông tôn làm mẹ đẻ, với con thầy ông coi như ruột thịt.

Năm 1875, khi Phạm Văn Nghị 70 tuổi được về hưu, Phạm Thận Duật cũng đã có bài mừng thầy Phạm Tam Đăng, trong đó có đoạn như sau: "...Thầy ta nhà nghèo ra làm quan, già vẫn kiên cường, chưa hề một ngày lãng quên triều đình, đất nước. Năm ngoái, giặc Pháp ngang ngược kéo đến, trận đánh ở Độc Bộ, một mình trơ trọi, không sao chống nổi. Thế mà thầy tỏ ra nghĩa khí sáng ngời, quân giặc khiếp sợ [1]..."

Năm 1881, nghe tin Thầy Tam Đăng Phạm Văn Nghị mất, Phạm Thận Duật khi đó đang làm Thượng thư Bộ Hình được cử thay mặt toàn thể học trò của Phạm Văn Nghị đang làm quan trong triều, làm bài văn viếng gửi về viếng thầy. Bài văn đó biểu lộ tấm lòng tôn sư trong đạo của những con người trọng nghĩa kính thầy. Bài văn viếng chứa chan tình cảm, nghẹn ngào xúc động. Nỗi day dứt của Phạm Thận Duật là vì công việc bận rộn, lệ định chặt chẽ, cho nên bản thân không thể trực tiếp hầu hạ tang lễ. Phép công là trọng, niềm tây đành phải nén. Thầy mất mà không về chịu tang được, ông buồn về nỗi buồn không tròn đạo lý của mình. Ông viết: "Thầy coi học trò như con mà học trò chẳng thể thờ thầy như cha". Song ông còn đau nỗi đau mà ông than thở: "Đang lúc sông nước ngày một cạn xuống, phong hội ngày càng ngả chiều, đạo ta cùng với dị đoan tranh sáng tối, trời sao nỡ cướp tiên sinh đi vội!".

Đoạn cuối bài văn viếng thầy Nghĩa Trai, Phạm Thận Duật đã phải thốt lên: "Tuy tiên sinh mất rồi, song cái điều không bao giờ mất là cái chí khí "hạo nhiên" vẫn cùng với non Côi, bể Nha[2], động Liên Hoa mãi mãi bất hủ. Người đời nay, người mai sau nghe thấy phong độ của tiên sinh ai mà chẳng kính mộ, ai mà chẳng noi theo, như thế thì tiên sinh chưa phải là mất, có gì phải đau thương? Than ôi! Học trò cũng như con, vậy mà thầy ốm chúng con chẳng được hầu thuốc, thầy mất chúng con chẳng có thư thăm hỏi,lúc chôn cất chúng con chẳng được tiếng khóc đưa. Thầy coi học trò như con mà học trò chẳng thể coi thầy như cha. Đau xót thay, khóc mà viết".

Đó là đoạn kết thống thiết bài văn viếng khi thầy mất của người học trò Phạm Thận Duật khi đang là Thượng thư Bộ Hình trong triều đình Tự Đức.

Bài văn viếng như sau:

VĂN VIẾNG PHẠM NGHĨA TRAI TIÊN SINH
(Nguyễn Văn Huyền dịch)

Tiên sinh Phạm Nghĩa Trai quy tiên, hai tháng sau tin buồn vào đến Kinh, bọn học trò chúng con nghe thấy mà lòng đau xót.

Ôi! Bầu chính khí trong trời đất, ở người ta là "khí hạo nhiên", chẳng vì sống mới tồn tại, chẳng vì chết mà mất đi, vậy thì có gì phải buồn thương?

Có điều, sự sống của tiên sinh rất hệ trọng cho thế đạo, vậy mà tiên sinh mất đi, lũ học trò chúng con sao mà không thổn thức khóc lóc?

Thương ôi! Khí thiêng của non Côi, bể Nha hội lại mà sinh ra tiên sinh. Tiên sinh đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất[3], làm quan chưa được mười năm, cáo bệnh về dạy học, người bốn phương cắp sách đến học kể có hàng nghìn. Quan Hữu tư[4] dâng biểu tiến cử tiên sinh giữ chức Đốc học ở tỉnh[5]. Gặp khi nước nhà lâm sự, tiên sinh khẳng khái lấy việc chống giặc làm trách nhiệm của mình. Dẫn quân vào Trà Sơn[6], đánh giặc ở Độc Bộ[7], chí tuy chưa đạt mà lời đồn đại về ông Phạm lẫm liệt không ai dám phạm. Nhà vua đã đặt bút khen rằng: "khi gặp việc có tinh thần phấn đấu". Lại rằng: "Học hạnh tiết nghĩa, làm khuôn mẫu cho sĩ phu". Khí tiết trung nghĩa của tiên sinh lúc bình sinh, trên chín bệ đã nghe thấy, trong thiên hạ đã truyền tụng, không phải là bọn học trò chúng con nói tốt lên đâu.

Đến khi việc nước tạm ổn, tiên sinh về động Liên Hoa[8], dưỡng lão ở Hồ Sơn, tuyệt nhiện không nói đến việc binh nữa, dường như quên hết thế sự, chí của tiên sinh cũng thực là khổ vậy.

Thương ôi! Tiên sinh quyết chết cho điều trung từ lâu rồi[9], vì quyết chết cho điều trung cho nên trời lại cho thọ. Việc biên cương lại dâng biểu[10], cành quế họ Đậu[11] thơm lừng, vinh hiển phúc trạch dồn cả vào một nhà. Đến như tuổi thọ của tiên sinh thật không thể lường được.

Trước đây, anh Cả[12] được nguyên tập giữ chức Bố chính tỉnh Thanh, lúc ấy tiên sinh tròn 70 tuổi, anh Cả định xin phép về cùng anh Hai[13] là Cử nhân Lạc Thiện và các em, dâng chén mừng thọ tiên sinh. Tiên sinh ngăn lại, dạy rằng: không nên, đã dấn thân vì nghĩa chung thì chớ nặng tình riêng, nhà ta cách tỉnh đường Thanh Hoá không xa, khi nào thư thả về thăm ta không muộn.

Mùa xuân năm ngoái, anh Ba[14], anh Năm[15] vừa đỗ cử nhân, vào triều thi Hội, tiên sinh đi cùng với các anh, đột nhiên bị ốm. Anh Cả cùng với hai anh Cử đưa tiên sinh về nhà, từ đó tiên sinh cứ thiêm thiếp trên giường bênh, rồi đột nhiên đi hẳn. Ai ngờ chuyện đi chơi tỉnh Thanh này lại là kỳ vĩnh biệt.

Tuy tiên sinh mất rồi, song cái điều không bao giờ mất là cái chí khí "hạo nhiên" vẫn cùng với non Côi, bể Nha, động Liên Hoa mãi mãi bất hủ. Người đời nay, người mai sau nghe thấy phong độ của tiên sinh ai mà chẳng kính mộ, ai mà chẳng noi theo, như thế thì tiên sinh chưa phải là mất, có gì phải đau thương?

Than ôi! Học trò cũng như con, vậy mà thầy ốm chúng con chẳng được hầu thuốc, thầy mất chúng con chẳng có thư thăm hỏi,lúc chôn cất chúng con chẳng được tiếng khóc đưa. Thầy coi học trò như con mà học trò chẳng thể coi thầy như cha. Đau xót thay, khóc mà viết.


Phạm Đình Nhân
Chủ tịch Quỹ giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật

Xem thêm Blog của Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật.

--------------------------------------------------
[1] Năm 1873, giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Chúng đem tàu chiến đánh vào Độc Bộ (ngã ba sông Đào chảy vào sông Đáy, thuộc huyện Ý Yên), Phạm Văn Nghị tập hợp trên một nghìn dân binh ra đó phòng thủ, chống nhau với giặc.

[2] Non Côi: núi Côi ở huyện Vụ Bản; bể Nha; vùng biển cửa sông Đáy, đều ở Nam Định, quê hương Phạm Văn Nghị

[3] Năm 1838

[4] Quan trông coi về việc nhân sự (sắp xếp quan lại)

[5] Tỉnh Nam Định, Phạm Văn Nghị làm Đốc học Nam Định từ 1857 đến 1859

[6] Chỉ việc Phạm Văn Nghị tự tổ chức đoàn Nghĩa dũng tình nguyện Nam tiến chống thực dân Pháp (1859-1860) khi chúng đánh chiếm Đà Nẵng

[7] Chỉ việc Phạm Văn Nghị tổ chức chặn đánh quân Pháp ngày 10.12.1873 ở ngã ba sông Độc Bộ khi chúng tiến quân đánh chiếm thành Nam Định (xem Chú thích về Non Côi ở trên)

[8] Động Liên Hoa thuộc Trường Yên, nay thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình, Liên Hoa là tên động do Pham Văn Nghị đặt

[9] Chỉ việc Phạm Văn Nghị đã nhảy xuống sông tự vẫn khi thất trận ở Độc Bộ

[10] Năm 1869, Phạm Văn Nghị có bản điều trần về việc phòng thủ bờ biển

[11] Có ý so sánh Phạm Văn Nghị với Đậu Yên Sơn (Trung Quốc) dạy dỗ 5 con trai đều thành đạt

[12] Anh Cả tức Phạm Đăng Giảng, con cả của Phạm Văn Nghị

[13] Tức Phạm Đăng Hân, con thứ 2 của Phạm Văn Nghị

[14] Tức Phạm Văn Hài, con thứ 3 của Phạm Văn Nghị

[15] Tức Phạm Văn Phổ, con thứ 5 của Phạm Văn Nghị


»»  Đọc tiếp

12 tháng 4, 2009

Ước mơ tạo vườn lan lớn nhất Việt Nam

Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 4 12, 2009 bởi PKDuong · 1 comments

Từ một bãi rác rộng mênh mông, không thể trồng được cây gì, nhưng với bàn tay của anh Phạm Văn Bạch (SN 1958) vùng đất tưởng như đã "chết" đó lại trở thành trang trại lan Gia Huy nổi tiếng, còn người cựu thanh niên xung phong ấy đã trở thành "triệu phú nông dân".

Nghèo khó không bó niềm tin

Sau 5 năm tham gia lực lượng thanh niên xung phong, trở lại quê nhà sống bên khu bãi rác Gò Cát, anh Bạch phải lặn lội làm không biết bao nhiêu nghề để kiếm sống nhưng rồi cũng vẫn hai bàn tay trắng. Trong anh chợt lóe lên suy nghĩ: Trồng lan để mưu sinh, bởi khu đất của gia đình chính là nơi chôn lấp rác ngày trước, phía dưới lòng đất rác nằm tầng tầng, lớp lớp tạo thành một luồng khí gas khá mạnh nên khó có loại cây nào sống được nhưng lại thích hợp cho trồng lan.     

Năm 1997, anh bắt tay vào cải tạo 1ha đất vườn (ở khu phố 4, phường Bình Hưng Hòa quận Bình Tân). Đất đai đã có nhưng không có vốn, có nghề, trong khi đó nghề trồng lan ở trong nước chưa thịnh hành, chưa có trường lớp nào đào tạo nghề trồng lan. Anh suy nghĩ, phải làm một chuyến xuất ngoại sang Thái Lan hay Trung Quốc - nơi được xem có ngành nông nghiệp phát triển cao để tìm hiểu kỹ thuật. Nhưng lấy đâu ra tiền mà đi nước ngoài? Ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Và thật may mắn, năm 2000 Hội Hoa lan - Cây cảnh thành phố đã hỗ trợ cho anh đi Thái Lan để tìm hiểu, học hỏi kỹ thuật trồng lan. Chuyến đi ấy đã giúp anh những điều mà trước đây không hề biết, đó là xây dựng hệ thống nhà lưới, hệ thống tưới phun tự động, nhân giống…

Từ đó, anh quyết tâm làm để dành dụm tiền, mỗi năm đi tua một lần vừa để tìm hiểu kỹ thuật, vừa tìm kiếm đối tác. Dẫn chúng tôi đi thăm vườn, anh giới thiệu từng loại lan, nào là: Monkara, Aranda, KaraWara… Rồi anh khoe, khu vườn hiện có trên 50.000 cây, chủ yếu là lan giống, bình quân mỗi năm bán cũng được trên 20.000 cây giống; còn bông thì mỗi tháng bán khoảng 5 nghìn cành. Như vậy trừ đi chi phí, thu nhập cũng trên dưới 1 tỷ đồng/năm. Ngoài ra, mỗi năm còn có hàng nghìn người đến đây xin được tư vấn, mua lan giống về trồng.

Sẽ có vườn lan lớn nhất

Giờ đây, đến vườn lan Gia Huy nhiều người không khỏi trầm trồ thán phục bởi hơn 50 nghìn cây lan các loại đang khoe sắc trong khu vườn rộng. Thế nhưng ít ai biết rằng, để tạo được chỗ đứng cho cây lan của mình nghệ nhân Phạm Văn Bạch đã phải nhiều đêm rơi nước mắt. Anh kể lại: "Giờ nhìn đẹp vậy chứ không đơn giản đâu, những năm đầu tiên có lúc lan chết hàng loạt mà không biết bệnh gì. Tôi đã mất ăn, mất ngủ và mất… cả tinh thần. Những giống lan Thái như: Kagamaka, Vandatek, Aranda… đặc biệt là giống lan Lenadegon giá mua rất cao nhưng lại hay chết, bởi mình chưa có kinh nghiệm cũng như chưa nắm bắt kỹ thuật trồng. Thế là vốn vay hơn 100 triệu đồng của tôi ở Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Bình Chánh đã "không cánh mà bay". Vợ tôi buồn, khuyên bỏ nghề kiếm việc khác làm nhưng tôi cứ chần chừ. Bà ấy giận quá bồng con về quê sống với cha mẹ, bỏ mặc tôi muốn làm gì thì làm!". Nhưng rồi cũng nhờ những chuyến đi học hỏi kinh nghiệm, anh có được bí quyết nghề, tìm được đầu ra, tự tin mở rộng diện tích. Đó là chìa khóa giúp cho người cựu thanh niên xung phong này thành công với nghề. 

Mới đây, sau chuyến đến thăm và gợi ý của lãnh đạo thành phố anh Bạch đã trình bày dự án thuê 10ha đất tại Khu nông nghiệp kỹ thuật cao (ở xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi) để tiếp tục dự án trồng lan của mình với kinh phí đầu tư khoảng 7 tỷ đồng. Nếu trở thành hiện thực, đây được xem là vườn lan có diện tích lớn nhất Việt Nam (nhưng còn quá nhỏ so với những trang trại trồng lan ở Thái Lan). Sở dĩ anh tự tin đầu tư, mở rộng diện tích trồng lan vì hiện nay Việt Nam đã sản xuất được mô, không cần phải sang Thái Lan để mua giống hay mua mô nữa nên yên tâm về chất lượng cây giống.

Hồ Văn

Nguồn: Báo Hà Nội mới; ngày 08/04/2009
»»  Đọc tiếp

11 tháng 4, 2009

Nữ doanh nhân họ Phạm xuất sắc năm 2007

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 4 11, 2009 bởi PK.Dương · 0 comments

Theo trang web Giải thưởng Việt Nam, http://www.giaithuong.vn sau đây là những Nữ doanh nhân xuất sắc năm 2007.

Phamnguyenhanh
Arrow3 Doanh nhân Phạm Nguyên Hạnh
Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may.
20 Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội.
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007

Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Cẩn
Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Cơ nhiệt điện lạnh Bách Khoa.
Số 24, đường Đại Cổ Việt, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007
Pham-thi-dieu-hien
Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Diệu Hiền
Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Diệu Hiền.
248 đường 30 tháng 04, phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007
Phamthikimdung
Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Kim Dung
Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Sơn La.
188 Tô Hiệu, Sơn La
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007
Phamthilananh
Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Lan Anh
Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty CP Bê tông, Xây dựng A & P.
Số 26/389, đường Hoàng Quốc Việt, p Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007
Phamthiloan
Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Loan
Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Đầu tư Thương mại Công nghiệp Việt Á.
Nhà 18/2, ngõ 370 đường Cầu Giấy, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007
Phamthimyle
Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Mỹ Lệ
Giám đốc Công ty TNHH Mỹ Lệ.
Đường ĐT 741 - Xã Long Hưng - Huyện Phước Long - Bình Phước
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007

Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Mùi
Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH MTV Thuốc lá Thăng Long.
235 Nguyễn Trãi - Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007

Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Nhuận
Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thương mại Định Nhuận.
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007

Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Tổ
Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp Đông Á.
Lot III - 9B - Tan Binh Industrial Park - Tan Phu District - Ho Chi Minh
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007

Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Thanh Hà
Chủ tịch HĐQT, Giám đốc Công ty CP Xây dựng công trình 512.
693/22 Trần Cao Vân, Q. Thanh Khê, ,Đà Nẵng
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007
Pham-thi-viet-nga
Arrow3 Doanh nhân Phạm Thị Việt Nga
Anh hùng Lao động, Tiến sĩ, Giám đốc Công ty CP Dược Hậu Giang.
288 Bis Nguyễn Văn Cừ, Q. Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ
Nữ Doanh nhân xuất sắc 2007


»»  Đọc tiếp

10 tháng 4, 2009

Không đồng nhất Tả tướng Phạm Tu với Phò mã Lý Phục Man

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 4 10, 2009 bởi PK.Dương · 0 comments


Báo Quân đội nhân dân, ngày 4/4/2009

Trong các tài liệu lịch sử để lại, có một số nhân vật lịch sử của nước ta còn chưa thống nhất về tên tuổi. Trong đó, trường hợp hiếm có là việc một số tài liệu đồng nhất hai nhân vật lịch sử cách đây 15 thế kỷ: lão tướng Phạm Tu (476-545) và phò mã Lý Phục Man. Do tư liệu về giai đoạn này còn lại không nhiều nên chúng tôi suy luận từ những gì còn ghi lại với mục đích tìm ra điều chân thực.

Vào năm 544, Nhà nước Vạn Xuân được Lý Bí (503-548) thành lập có hai ban Văn Võ. Lão tướng Phạm Tu đứng đầu Ban Võ. Thời đó còn có một danh tướng Lý Phục Man: «ông được gả công chúa Lý Nương, ban cho ông họ Lý và chức Thiếu uý, được gọi là Phục Man tướng quân. Trở về quê quản lĩnh vùng đất Đỗ Động, Đường Lâm.» (1)

Giáo sư Sử học Lê Văn Lan viết: «…Còn trong bộ "TỪ ĐIỂN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM" (Nxb. Khoa học xã hội, H.,1991, tr.744): “Quê làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý, nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man, lại được vua gả công chúa Phương Dung cho... Mộ và đền thờ ông nay hãy còn di tích tại quê ông ở làng Giá.”


Nhà bia thờ Phạm Tu trong khuôn viên đình ngoại ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội

Như vậy ở đây có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ "VIỆT ĐIỆN U LINH" chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết.»

*  *  *

Để tìm hiểu việc đồng nhất này, chúng ta thử dùng phương pháp “phản chứng” tạm giả thiết: lão tướng Phạm Tu chính là phò mã Lý Phục Man. Nếu vậy thì:

1. Một vị đứng đầu Ban Võ của Nhà nước Vạn Xuân – Tả tướng Phạm Tu, (Lý Phục Man) “được cử làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh”? (2) Có hẳn một Ban Võ, thì chắc chắn Nhà nước Vạn Xuân không thể để Lão tướng đứng đầu Ban Võ đi giữ biên cảnh phía Tây (Đỗ Động, Đường Lâm), trong khi vùng trọng yếu hơn vẫn là phía Bắc.

2. Lý Nam Đế gả công chúa Phương Dung (Lý Nương) cho Phạm Tu sao? Nếu có sự kiện này chỉ có thể xảy ra từ năm 542 đến 545. Để làm rõ điều này chúng ta xét năm sinh của Lý Bí là 503; của Phạm Tu là 476; như vậy Phạm Tu hơn Lý Bí 27 tuổi. Nếu sớm nhất là năm 542, Lý Bí gả công chúa cho Phạm Tu (Lý Phục Man), lúc này Phạm Tu đã 67 tuổi; Lý Bí 40 tuổi và con gái của Lý Bí chắc cũng khoảng mười chín, đôi mươi. Một công chúa trẻ vậy mà Hoàng đế lại gả cho lão tướng đáng tuổi cha mình, đáng tuổi ông của công chúa sao?

Việc ban quốc tính thực hiện đại trà ở thời Lê Thái Tổ, ở thời hậu Lý không phổ biến nhưng tương đối nhiều. Còn thời tiền Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: ban cho Tả tướng Phạm Tu quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó Triệu Túc không được ban quốc tính?

Trong khi đó từ khi Lý Bí khởi nghĩa (542) đến lúc ông mất (548) chỉ có sáu năm, mà Phạm Tu là lão tướng còn phò mã Lý Phục Man là vị tướng trẻ tuổi. Không hiểu vì "cơn cớ" gì mà chúng ta có thể chấp nhận hai người này là một?

Điều chúng ta thấy rõ ràng rằng Lý Phục Man là một tướng quân trẻ tuổi, tài giỏi nên được Lý Nam Đế gả công chúa. Vùng phò mã cai quản cũng là vùng quê của Lý Bí. Có phải chính Lý Phục Man là người bảo vệ bên cạnh Lý Nam Đế, rồi sau về động Khuất Lão. Nên rất có thể Lý Nam Đế và Lý Phục Man cùng mất năm 548 ở động Khuất Lão.



Từ những suy luận nêu trên cho thấy: việc đồng nhất hai nhân vật lịch sử Phạm Tu (476-545) và Lý Phục Man (?-548) là thiếu cơ sở. Rõ ràng là cuốn “TỪ ĐIỂN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM” in năm 2006 đã sửa chữa có nêu hai nhân vật riêng biệt, không coi Phạm Tu và Lý Phục Man là một người như cuốn sách cùng tên in năm 1991. Đó là một kết luận hợp lý!

Phạm Chí Nhân (Tháp Bút)

Nguồn: Báo Quân Đội Nhân Dân cuối tuần (ngày 10/4/2009)

- Blog của tác giả Phạm Chí Nhân (Tháp Bút)

- Blog tổng hợp tài liệu về Danh tướng Phạm Tu và Tướng công Lý Phục Man:
http://phamtu-phucman.blogspot.com/

----------------------------------------------
(1) Theo www.bachkhoatoanthu.gov.vn - Bản quyền thuộc Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn “Từ điển Bách Khoa Việt Nam”, Tổng biên tập: GS.TS. Hà Học Trạc.

(2) Theo GS. Trần Quốc Vượng
»»  Đọc tiếp

Thư chúc mừng BLL họ Phạm Lâm Đồng

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 4 10, 2009 bởi Unknown · 0 comments

Được tin các bác họ Phạm ở Đà Lạt dự định ngày mai: 11/04/2009 sẽ tổ chúc buổi lễ thành lập Ban liên lạc họ Phạm Đà Lạt – Lâm Đồng. Tôi xin thay mặt Thường trực BLL họ Phạm Việt Nam gửi đến các bác lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc buổi lễ thành công tốt đẹp.
Thế là lại thêm một BLL họ Phạm mới ra đời. Lâm Đồng – Đà Lạt là một tỉnh miền núi có nhiều tiềm năng phát triển nhất là về du lịch. Bà con họ Phạm ta sinh sống ở đó cũng không phải là ít, và cũng đã đóng góp công sức của mình cho sự phát triển của Lâm Đồng – Đà Lạt.
Lâu nay bà con vẫn luôn hướng về cội nguồn nhưng chưa có một tổ chức để qui tụ nhau lại. Nay BLL họ Phạm Lâm Đồng được thành lập là đáp ứng nguyện vọng đó.
Vậy chúng tôi một lần nữa chúc mừng sự ra đời của BLL họ Phạm ở Lâm Đồng. Chúc các bác luôn luôn mạnh khỏe, thúc đẩy các hoạt động dòng họ ở điạ phương góp phần vào phong trào hoạt động dòng họ ta trên cả nước.

TP.HCM, 10/04/2009
PGS.TS. Phạm Đạo
Tổng thư ký BLL họ Phạm Việt Nam
»»  Đọc tiếp

Danh sách BLL họ Phạm Vĩnh Phúc

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 4 10, 2009 bởi PK.Dương · 0 comments

1. Ông Phạm Quang Nhuệ, Ủy viên BLL họ Phạm Việt Nam, Phó Ban HĐTS họ Phạm Đông Ngạc chi cụ Phạm Đạo Sinh

2. Ông Phạm Văn Lạc, Trưởng BLL họ Phạm thị xã Phúc Yên – Phó trưởng Ban.

3. Ông Phạm Quang Hùng, Đại diện BLL họ Phạm TP. Vĩnh Yên – Phó trưởng Ban

4. Ông Phạm Văn Lại, Đại diện BLL họ Phạm TP. Vĩnh Yên - Ủy viên

5. Ông Phạm Quang Quế, Đại diện BLL họ Phạm huyện Bình Xuyên - Ủy viên

6. Ông Phạm Văn Đạt, Đại diện BLL họ Phạm huyện Tam Dương - Ủy viên

7. Ông Phạm Quang Bạt, Đại diện BLL họ Phạm huyện Yên lạc - Ủy viên

8. Ông Phạm Quang Dong, chi cụ Phạm Đạo Sinh - Ủy viên

9. Ông Phạm Quang Khai, họ Phạm Đông Ngạc chi Vĩnh Phúc - Ủy viên

10. Đại diện huyện Lập Thạch

11. Đại diện huyện Vĩnh Tường

12. Đại diện huyện Tam Đảo

13. Ông Phạm Văn Thả, thị xã Phúc Yên, ủy viên
»»  Đọc tiếp

9 tháng 4, 2009

Phạm Xuân Thúy - Nghị lực và tình thương

Đăng ngày Thứ Năm, tháng 4 09, 2009 bởi PKDuong · 0 comments

Ngay từ lúc sinh ra, Phạm Xuân Thúy ở xã Đông Phương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đã phải chịu cảnh tật nguyền. Bị liệt và teo nửa người, không chỉ sức khỏe yếu mà việc sinh hoạt, đi lại của anh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Cha anh đã động viên anh đi học một nghề phù hợp với người khuyết tật, đó là nghề may. Sau 9 tháng, học thành nghề, anh về nhà mở hiệu. ..

Sau những buổi sinh hoạt Câu lạc bộ người khuyết tật, trở về nhà, Thúy cứ trăn trở: vẫn còn rất nhiều người khuyết tật có khả năng lao động nhưng lại chưa có được việc làm. Phải làm gì để giúp họ? Thế là, đầu năm 2004, anh quyết định mở xưởng may riêng - một quyết định mà đến giờ anh vẫn cho là mạo hiểm. Nhưng anh xác định, nếu không thành công thì chỉ mình mình chịu, còn nếu thành công thì sẽ có nhiều người cùng cảnh ngộ được giúp đỡ. Với số tiền 21 triệu đồng anh mua 7 chiếc máy may công nghiệp. Một khoản tiền khác được đầu tư cho nguyên vật liệu. Xưởng sản xuất thì “mượn tạm” nhà của anh vợ. Ngày khởi đầu còn bộn bề bao khó khăn song anh vẫn quyết định, người khuyết tật, trẻ mồ côi sẽ được học nghề miễn phí. Sản xuất lúc đầu chủ yếu theo hình thức gia công, dần dần với chất lượng sản phẩm được khẳng định, khách hàng đã tìm đến với cơ sở của anh ngày càng đông hơn. Số người làm cũng tăng từ 4 lên 13 và hiện nay là 22 người đang làm việc thường xuyên với thu nhập bình quân từ 400.000 – 800.000 đồng/người/tháng. Nhưng tổng số người đã được anh Thúy dạy nghề trong 5 năm qua là 314 người, trong đó có 56 người khuyết tật.

Anh chỉ mong muốn làm sao tạo được nhiều việc làm cho những người cùng cảnh ngộ, nên anh mạnh dạn đầu tư thêm máy móc, trang thiết bị và thuê 1.000 m2 đất của xã xây dựng nhà xưởng mới và nơi ăn, nghỉ cho công nhân, bảo đảm đủ khả năng thực hiện những hợp đồng lớn hơn. Nghị lực đã giúp anh thành công, còn tình thương của anh đã giúp cho nhiều người khuyết tật có thêm cơ hội hòa nhập cuộc sống.

Cơ sở sản xuất của anh, ngôi nhà của anh nay đã trở thành mái ấm, thành gia đình thứ hai của nhiều mảnh đời bất hạnh.

Điều đó thật đáng quý!

Minh Sơn

Nguồn: Trang thông tin của UBND Tỉnh Thái Bình
»»  Đọc tiếp

8 tháng 4, 2009

Gương làm ăn của anh Phạm Văn Bạch

Đăng ngày Thứ Tư, tháng 4 08, 2009 bởi Phạm Hoàng Tuấn · 0 comments

Ước mơ tạo vườn lan lớn nhất Việt Nam
http://www.hanoimoi.com.vn/vn/42/203188/; 08/04/2009

Từ một bãi rác rộng mênh mông, không thể trồng được cây gì, nhưng với bàn tay của anh Phạm Văn Bạch (SN 1958) vùng đất tưởng như đã "chết" đó lại trở thành trang trại lan Gia Huy nổi tiếng, còn người cựu thanh niên xung phong ấy đã trở thành "triệu phú nông dân".



Nghèo khó không bó niềm tin

Sau 5 năm tham gia lực lượng thanh niên xung phong, trở lại quê nhà sống bên khu bãi rác Gò Cát, anh Bạch phải lặn lội làm không biết bao nhiêu nghề để kiếm sống nhưng rồi cũng vẫn hai bàn tay trắng. Trong anh chợt lóe lên suy nghĩ: Trồng lan để mưu sinh, bởi khu đất của gia đình chính là nơi chôn lấp rác ngày trước, phía dưới lòng đất rác nằm tầng tầng, lớp lớp tạo thành một luồng khí gas khá mạnh nên khó có loại cây nào sống được nhưng lại thích hợp cho trồng lan.



Năm 1997, anh bắt tay vào cải tạo 1ha đất vườn (ở khu phố 4, phường Bình Hưng Hòa quận Bình Tân). Đất đai đã có nhưng không có vốn, có nghề, trong khi đó nghề trồng lan ở trong nước chưa thịnh hành, chưa có trường lớp nào đào tạo nghề trồng lan. Anh suy nghĩ, phải làm một chuyến xuất ngoại sang Thái Lan hay Trung Quốc - nơi được xem có ngành nông nghiệp phát triển cao để tìm hiểu kỹ thuật. Nhưng lấy đâu ra tiền mà đi nước ngoài? Ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Và thật may mắn, năm 2000 Hội Hoa lan - Cây cảnh thành phố đã hỗ trợ cho anh đi Thái Lan để tìm hiểu, học hỏi kỹ thuật trồng lan. Chuyến đi ấy đã giúp anh những điều mà trước đây không hề biết, đó là xây dựng hệ thống nhà lưới, hệ thống tưới phun tự động, nhân giống…



Từ đó, anh quyết tâm làm để dành dụm tiền, mỗi năm đi tua một lần vừa để tìm hiểu kỹ thuật, vừa tìm kiếm đối tác. Dẫn chúng tôi đi thăm vườn, anh giới thiệu từng loại lan, nào là: Monkara, Aranda, KaraWara… Rồi anh khoe, khu vườn hiện có trên 50.000 cây, chủ yếu là lan giống, bình quân mỗi năm bán cũng được trên 20.000 cây giống; còn bông thì mỗi tháng bán khoảng 5 nghìn cành. Như vậy trừ đi chi phí, thu nhập cũng trên dưới 1 tỷ đồng/năm. Ngoài ra, mỗi năm còn có hàng nghìn người đến đây xin được tư vấn, mua lan giống về trồng.



Sẽ có vườn lan lớn nhất

Giờ đây, đến vườn lan Gia Huy nhiều người không khỏi trầm trồ thán phục bởi hơn 50 nghìn cây lan các loại đang khoe sắc trong khu vườn rộng. Thế nhưng ít ai biết rằng, để tạo được chỗ đứng cho cây lan của mình nghệ nhân Phạm Văn Bạch đã phải nhiều đêm rơi nước mắt. Anh kể lại: "Giờ nhìn đẹp vậy chứ không đơn giản đâu, những năm đầu tiên có lúc lan chết hàng loạt mà không biết bệnh gì. Tôi đã mất ăn, mất ngủ và mất… cả tinh thần. Những giống lan Thái như: Kagamaka, Vandatek, Aranda… đặc biệt là giống lan Lenadegon giá mua rất cao nhưng lại hay chết, bởi mình chưa có kinh nghiệm cũng như chưa nắm bắt kỹ thuật trồng. Thế là vốn vay hơn 100 triệu đồng của tôi ở Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Bình Chánh đã "không cánh mà bay". Vợ tôi buồn, khuyên bỏ nghề kiếm việc khác làm nhưng tôi cứ chần chừ. Bà ấy giận quá bồng con về quê sống với cha mẹ, bỏ mặc tôi muốn làm gì thì làm!". Nhưng rồi cũng nhờ những chuyến đi học hỏi kinh nghiệm, anh có được bí quyết nghề, tìm được đầu ra, tự tin mở rộng diện tích. Đó là chìa khóa giúp cho người cựu thanh niên xung phong này thành công với nghề.



Mới đây, sau chuyến đến thăm và gợi ý của lãnh đạo thành phố anh Bạch đã trình bày dự án thuê 10ha đất tại Khu nông nghiệp kỹ thuật cao (ở xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi) để tiếp tục dự án trồng lan của mình với kinh phí đầu tư khoảng 7 tỷ đồng. Nếu trở thành hiện thực, đây được xem là vườn lan có diện tích lớn nhất Việt Nam (nhưng còn quá nhỏ so với những trang trại trồng lan ở Thái Lan). Sở dĩ anh tự tin đầu tư, mở rộng diện tích trồng lan vì hiện nay Việt Nam đã sản xuất được mô, không cần phải sang Thái Lan để mua giống hay mua mô nữa nên yên tâm về chất lượng cây giống.



Hồ Văn
»»  Đọc tiếp
 
Trang web của BLL Họ Phạm Việt Nam chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 2/2005. Xem phiên bản cũ tại đây
Vui lòng để liên kết về nguồn tin nếu bạn xuất bản lại thông tin trên trang web này.


Trang web được xây dựng từ nền tảng Blogger.com, cung cấp bởi