Thư kêu gọi xây dưng quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam.

Kính gửi các tổ chức, cá nhân, các nhà doanh nghiệp
cùng toàn thể bà con họ Phạm trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, các hoạt động tình nghĩa của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam cũng như của các Ban Liên lạc họ Phạm các địa phương, của các Hội đồng gia tộc các dòng họ Phạm cả nước đã có nhiều hình thức phong phú, kết quả thiết thực, cụ thể là đã khen thưởng động viên các cháu có bố hoặc mẹ họ Phạm đạt thành tích cao trong học tập và các hoạt động khác, cấp học bổng cho các cháu vượt khó vươn lên học giỏi, đồng thời trợ giúp cho các gia đình họ Phạm gặp khó khăn đặc biệt. Nhiều tổ chức, cá nhân, nhiều nhà doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã đứng ra tài trợ, đóng góp công của cho các hoạt động này, tạo nên tình cảm đồng tộc rất tốt đẹp, đúng với truyền thống văn hiến của Dân tộc ta. Xem tiếp
.

27 tháng 7, 2011

Phạm Đăng Huy đoạt Huy chương Bạc thi Olimpic hoa học quốc tế

Đăng ngày Thứ Tư, tháng 7 27, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Cậu bạn lớp 11 “rinh” HCB Olympic Hóa học quốc tế

(Dân trí)- Là thí sinh duy nhất đại diện cho TP cảng Hải Phòng tham dự kỳ thi Olympic quốc tế 2011 và cũng là thí sinh nhỏ tuổi nhất của đội tuyển Việt Nam tham dự Olympic Hóa học quốc tế 2011 - đó là Phạm Đăng Huy, lớp 11 Hóa, THPT chuyên Trần Phú, Hải Phòng.
>> Làm quen với cô bạn sở hữu HCB Olympic Hóa học quốc tế
>> Những câu chuyện đằng sau tấm huy chương vàng Olympic Vật lý


Phạm Đăng Huy tham quan tại Thổ Nhĩ Kỳ khi tham dự Olympic Hóa học quốc tế năm 2011.
Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống học Hóa, đó là lý do khiến Huy quyết định gắn bó với môn Hóa học.
Được biết, bố mẹ Huy đều là giáo viên dạy Hóa. Bố em từng là giáo viên dạy Hóa cấp 3, hiện đang công tác tại Sở GD-ĐT TP Hải Phòng. Mẹ em là giảng viên Trường ĐH Hải Phòng chuyên về phần Hóa học phân tích. Chị Huy từng đạt giải nhì quốc gia môn Hóa và hiện là giảng viên Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội.
Huy cho biết: “Hồi nhỏ, khi theo mẹ đến trường đại học, được xem mẹ dạy, nhìn các thí nghiệm mẹ làm, em đã thấy thích môn Hóa. Em yêu cái cách mà các chất phản ứng với nhau như có một mối liên hệ đặc biệt nào đó. Sau này em còn thấy Hóa học có rất nhiều ứng dụng to lớn trong cuộc sống. Chính vì vậy, em đam mê Hóa học và coi đó như là lẽ sống của mình”.
Ngay từ những năm học cấp 2, Huy đã cho thấy khả năng của mình về môn Hóa với giải Excellent kì thi Hóa Hoàng gia Úc năm lớp 8, giải nhì thành phố Hải Phòng môn Hóa năm lớp 9.
Bước vào cấp 3, học tập tại trường THPT chuyên Trần Phú, Hải Phòng, Huy tiếp tục cho thấy sự “bén duyên” của mình với các giải thưởng liên quan đến Hóa. Huy đã giành được giải nhất kì thi Duyên hải Bắc bộ môn Hóa năm lớp 10,11. Mới đây là giải nhất quốc gia môn Hóa năm lớp 11 và tiếp đó là huy chương bạc (HCB) Olympic Hóa học quốc tế diễn ra tại Thổ Nhĩ Kỳ.



Phạm Đăng Huy (ngoài cùng bên phải) cùng các thành viên đội tuyển Việt Nam
 tham dự Olympic Hóa học quốc tế năm 2011 tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhớ lại hành trình dẫn đến tấm HCB quốc tế, Huy thành thực chia sẻ: “Khi đi thi, em cũng hơi bị áp lực vì mình là học sinh lớp 11, kiến thức chưa dày dặn như các anh chị, hơn nữa em lại là người duy nhất của thành phố được đi thi quốc tế. Vậy nên, em tự nhủ phải cố gắng hết sức để giữ vững bề dày thành tích của trường, của thành phố. Tấm HCB đạt được là kết quả nỗ lực học tập của em và sự dạy dỗ của các thầy cô giáo, cộng thêm một chút may mắn nữa”.
Nói về chuyện học tập của Huy, cô Vũ Thị Yến - mẹ Huy chia sẻ: Từ nhỏ, gia đình đã cho em tự quyết định theo mong ước của mình. Huy đam mê học Hóa, đúng với ngành của gia đình nên gia đình rất ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất cho em học tập. Ở nhà, Huy rất chịu khó đọc sách. Khi đọc sách, em dùng bút nhớ để lưu ý những ý chính cần nhớ. Em thường ghi chép lại những cái mình cho là tâm đắc và có cách học riêng của mình.
Không chỉ có mẹ luôn quan tâm, chăm sóc, động viên, nhắc đến gia đình, Huy luôn bày tỏ niềm tự hào về bố. Huy bật mí: “Bố em trước kia từng được Huy chương vàng Olympic Hóa học Sinh viên Việt Nam. Trong nhà, ngoài mẹ, bố là người ảnh hưởng đến em nhiều nhất trong quá trình học tập môn Hóa. Bố kèm em học và giải đáp những điều em chưa hiểu. Em luôn lấy bố làm tấm gương để phấn đấu”.
Chia sẻ về dự định của mình, Huy cho biết: “Em muốn sau này theo học ngành Hóa. Em dự định học để trở thành kĩ sư Hóa. Tuy nhiên, trước mắt, em sẽ tiếp tục phấn đấu để đạt thành tích cao nhất trong kỳ thi quốc gia năm sau và hi vọng em được tham dự Olympic quốc tế thêm một lần nữa”.

Bài:Linh Anh
Ảnh:Nhân vật cung cấp

»»  Đọc tiếp

26 tháng 7, 2011

Thư tri ân nhân ngày 27/7

Đăng ngày Thứ Ba, tháng 7 26, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Thư Tri ân

Nhân ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, BBT trang web “hophamvietnam.org” xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến những thương binh và gia đình liệt sỹ vì những sự hy sinh của bản thân thương binh cũng như các liệt sỹ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã đem lại độc lập tự do cho đất nước, để dân tộc ta sánh ngang hàng với các nước bè bạn năm châu và nhân dân ta có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn như hôm nay.
Chúng tôi xin chúc các đồng chí thương binh “tàn mà không phế” luôn xứng đáng là anh “Bộ đội cụ Hồ”. Chúc gia đình các liệt sỹ luôn phát huy tinh thần anh hùng cách mạng để toàn dân noi theo. Chúc các thương binh và thành viên các gia đình liệt sĩ sức khỏe và thành đạt.
Nhân đây xin gửi đến bà con và bạn đọc bài thơ của anh Thanh Tùng “Nhớ ơn"

NHỚ ƠN


Nhớ ngày liệt sỹ thương binh
Ơn người hiến trọn đời mình vì dân
Có người mất cả đôi chân
Nhọc nhằn trên chiếc xe lăn qua ngày


Có người mất cả đôi tay
Quãng đời còn lại chất đầy khó khăn
Có người bưng bát cơm ăn
Không sao nhai được bởi răng không còn

Có người thân thể héo hon
Da cam chất độc đang còn thấm sâu
Có người đôi mắt đen ngàu
Mất thủy tinh thể lấy đâu mà nhìn

Có người mảnh đạn còn nguyên
Nằm trong cơ thể tật nguyền mãi đau
Chiến tranh tuy đã qua lâu
Những điều mất mát biết đâu mà tìm

Chí bền luôn vững niềm tin
Bao nhiêu năm tháng đi tìm tự do
Quyết vì gìn giữ cơ đồ
Máu xương tô thắm sắc cờ Việt Nam.






»»  Đọc tiếp

25 tháng 7, 2011

MỘT NHÀ CÁCH MẠNG

Đăng ngày Thứ Hai, tháng 7 25, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Nhân ngày thương binh liệt sĩ 27.7.2011


MỘT NHÀ CÁCH MẠNG
xuât thân từ một gia đình “Tứ tử đồng khoa”

Được Ban Tổ chức Trung ương xét duyệt và ủy quyền, ngày 14/2/2011 tỉnh Thái Bình đã có quyết định số 80-QĐ/TƯ “công nhận đồng chí Phạm Ích Doanh, sinh năm 1911, nguyên quán làng Phú Lễ, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, Thái Bình là cán bộ hoạt động cách mạng ở cơ sở, đã hy sinh ngày 5/5/1940 là người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 có thời gian tham gia cách mạng từ 1938-1940”.
Người con trai độc nhất của ông Phạm Ích Doanh là Phạm Mạnh Xứng, trung úy QĐNDVN làm phiên dịch tiếng Nga cho bộ phận tên lửa thuộc bộ đội phòng không không quân, lại hy sinh trên mặt trận đánh máy bay Mỹ tại Đống Đa (Hà Nội) năm 1967 khi vừa tròn 29 tuổi như bố và cũng năm đó (1967) con rể ông Doanh là Trung úy Đặng Đình Tháp cũng hy sinh trên chiến trường Quảng Bình. Như vậy là ông, con trai và con rể của ông đều ngã xuống vì độc lập và tự do của Tổ quốc!
Với những cống hiến cho cách mạng và sự hy sinh lớn lao của cả gia đình, vợ ông, bà Phạm Thị Tý năm 1995 đã được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu trong xã.
Tóm tắt thân thế và sự nghiệp của ông Phạm Ích Doanh cùng gia đình cho cách mạng như sai.:
Ông Phạm Ích Doanh là con trai độc nhất của cụ Tú Phạm Đình Liêu. Ông nội của ông Phạm Ích Doanh tên là cụ Phạm Xuân Hoành, thế hệ thứ 12 của dòng họ Phạm Tiên Hưng, một nhà nho nghèo ở thôn Phú Lễ, tổng Thuận Vi, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình (nay là thôn Phú Lễ, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, THái Bình). Cụ có 4 người con trai (Phạm Xuân Thực, Phạm Tiến Bật, Phạm Duy Ninh và Phạm Đình Liêu) thì cả 4 anh em đều đã đỗ tú tài một khoa thi, rồi sau đó người con thứ hai và thứ ba đỗ cử nhân. Gia đình cụ Phạm Xuân Hoành được triều Nguyễn phong cho là “Tứ tử đồng khoa” và xướng báo trên loa ở khoa thi Hương của triều đình tổ chức tại tỉnh lỵ Nam Định năm 1900. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị từ xưa đến nay trong cả nước.
Ông Phạm Ích Doanh sinh năm 1911 trong một gia đình có truyền thống hiếu học và nề nếp gia phong không ham phú quý quan chức như đã nói trên Được cha là cụ Tú Liêu dạy dỗ kiến thức và truyền thụ đạo đức, ông Phạm Ích Doanh sớm có lòng yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc. Từ những năm 1930 khi còn đi học ông đã làm nhân viên sửa chữa cho báo Đông Phương Thực Nghiệp là tờ báo tiến bộ thời bấy giờ. Mặc dù nhà rất nghèo gia đình cũng cố lo cho ông học tuy chỉ là bậc sơ học. Sau khi tốt nghiệp sơ học Pháp Việt (CEPFI) ông tiếp tục theo học lớp xa trưởng đường sắt (chạy de trains) trường Kỹ thuật dạy nghề, ra trường nhận việc kiểm tra vé tàu, sau chuyển vào làm xa trưởng ở tuyến Nam Trung Bộ (Quy Nhơn đi Tuy Hòa). Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào cách mạng do các lãnh tụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi xướng mở đầu bằng cải cách nền học vấn. Rồi cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp có tác động đến giới học sinh. Ông sớm có tư tưởng yêu nước, lại được các nhà cách mạng ở địa phương giác ngộ, giúp đỡ, ông đã tham gia các hoạt động cách mạng và trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản tại chi bộ Hỏa xa Quy Nhơn. Ông đã hoạt động tích cực trong nhiều lĩnh vực, nhất là tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng công nhân và đấu tranh chống thực dân, chống chủ xí nghiệp, chống lại việc tuyển mộ lính cho thực dân. Ông là ủy viên Ban trị sự Họi ái hữu hỏa xa Quy Nhơn.
Theo “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định 1930-1945” xuất bản 1990, trang 116: “Để đối phó với phong trào đấu tranh của công nhân Bình Định, bọn cảnh sát Trung Kỳ dựng ra vụ “Cộng sản gài mìn lầu nghỉ mát của vua Bảo Đại” tại Gành Ráng (Quy Nhơn) để lấy cớ giới nghiem và bắt người tràn lan. Từ đầu tháng 3/1940 đến cuối tháng 5/1940, hơn 60 công nhân viên chức đề-pô Diêu Trì và các ga Quy Nhơn, Phù Mỹ, Tam Quan bị bắt, Chúng đánh chết đ/c Nguyễn Đình Trụ là Bí thư chi bộ đề-pô Diêu Trì tại căn nhà số 25 đường Jules Ferry (nay là đường Phan Bội Châu) vào đêm 25 rạng ngày 26/3/1940 và đ/c Phạm Ích Doanh, trưởng xe ga Quy Nhơn, đảng viên, ủy viên Ban trị sự Hội Ái hữu hỏa xa vào đêm 5/5/1940 rồi vu cáo họ tự sát…”. Công văn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Định gửi cho ông Đặng Đình Thiêm ngày 19/8/1998 lại cho biết thêm: “Sau khi đ/c Nguyễn Đình Trụ bị giết hại, đ/c Phạm Ích Doanh viết báo vạch trần thủ đoạn hèn hạ của mật thám Pháp đăng trên một tờ báo công khai ngày 1/5/1940, sau đó chúng giết hại đ/c Phạm Ích Doanh ngày 5/5/1940”.
Một tài liệu khác nói về những ngày cuối cùng của ông Phạm Ích Doanh như sau: Một lần được Đảng phân công làm tổ trưởng tổ công tác thực hiện việc gài mìn để giết tên toàn quyền Pháp trên đường đi Đà Lạt hội đàm với Bảo Đại. Việc bị bại lộ chúng đàn áp và truy lùng, ông bị bắt ngày 3/5/1940, chúng tra tấn ông 3 ngày mà không khai thác được gì. Trong đợt hỏi cung cuối cùng, tự thấy chúng chẳng để mình sống, nên thừa lúc tên chánh mật thám không để ý, ông thu toàn lực, dùng hai tay còn mang nguyên xiềng xích đập thẳng vào mặt vào đầu tên thực dân. Đồng bọn sau khi trấn tĩnh đã ập vào đánh ông để giải cứu tên chánh mật thám. Theo lệnh tên chánh mật thám, chúng đánh ông đến chết ông vào 15 giờ ngày 5/5/1940, lúc đó ông 29 tuổi.
Cách mạng thành công, nhân dân xóm quê nhà đã lấy tên tự của ông là Tiên Chu đặt tên cho quê hương để mãi nhớ đến ông, người con của quê hương đã hy sinh anh dũng.
Nhờ sự giúp đỡ của tỉnh ủy Nghĩa Bình và Sở LĐTBXH Nghĩa Bình, năm 1983, ông Doanh đã được nhà nước công nhận là Liệt sĩ cách mạng tiền bối và cấp bằng Tổ quốc ghi công theo Quyết định số 326TTg ngày 11/12/1962 của Chính phủ. Trên Bằng ghi rõ: “Liệt sĩ Phạm Ích Doanh, Đoàn viên Thanh niên phản đế, đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc”.
Cùng với việc công nhận đ/c Phạm Ích Doanh là người hoạt động trước 01/01/1945, trong đợt này, ở xã Tự Tân còn có ông Phạm Huề Chủy nguyên là cán bộ xứ ủy Bắc Kỳ, là bí thư chi bộ Thư Vũ bị Pháp bắt bỏ tù 3 lần, ông trốn thoát lên chiến khu Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam hoạt động. Ông là người tham gia xây dựng cơ sở Đảng bộ Nam Hà (Hà Nam) rồi hy sinh. Ông Chùy cũng được công nhận là liệt sỹ, là người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945. Như vậy, làng Phú Lễ là làng duy nhất có 2 liệt sỹ cách mạng hy sinh trước ngày 01/01/1945 là những liệt sỹ cách mạng tiền khởi nghĩa, hai ông đều là người thuộc họ Phạm Tiên Hưng: Phạm Ích Doanh và Phạm Huề Chùy.
Với truyền thống hiếu học, dòng dõi khoa bảng và nề nếp gia phong, ông Phạm Ích Doanh, người con trai độc nhất của Cụ Tú Liêu sớm có lòng yêu nước, trở thành nhà cách mạng, ông cùng với con trai đã hy sinh vì Tổ quốc, nêu một tấm gương sáng và là niềm tự hào của dòng họ Phạm Tiên Hưng, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình..
Thúy Lan
(Theo tư liệu và gia phả dòng họ Phạm Tiên Hưng)
»»  Đọc tiếp

24 tháng 7, 2011

Tin buồn

Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 7 24, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

BLL họ Phạm Việc Nam vô cùng thương tiếc báo tin:

Cụ Nguyễn Thị Nghìn, SN 1925, trú quán xóm 5, thông Đôn Thư, Xã Kim Thư, Huyện Thanh Oai, Hà Nội, thân sinh ông Phạm Vũ Câu, Uỷ viên thường trực BLL họ Phạm Việt Nam, Trưởng BLL họ Phạm Tp. Hà Nội mất vào hồi 0h 20 phút ngày 24/7/2011 tức 24/6 năm Tân Mão, thọ 87 tuổi.
Đoàn thay mặt BLL họ Phạm VN viếng gồm các vị:
    1. Phạm Văn Dương, Phó Trưởng ban, TTK BLL họ Phạm VN - Trưởng đoàn
    2. PHẠM ĐÌNH ĐIỂU, UVTTr, Trưởng Ban Tư liệu và tộc phả BLL họ Phạm VN
    3. PHẠM NGHỊ, UVTTr, Trưởng ban Lễ tân, BLL họ Phạm VN
    4. PHẠM THUÝ LAN, UVTTr, Tổng biên tập Bản tin nội tộc BLL họ Phạm VN
    5. Phạm Quang Nhuệ, Uỷ viên TTr BLL họ Phạm VN, Phó Tổng biên tập Trang tin điện tử, Phó Trưởng ban kiêm Tổng thư ký BLL họ Phạm Hà Nội, Trưởng BLL họ Phạm tỉnh Vĩnh Phúc
    6. Phạm Quang Hoàn, UVTTr BLL họ Phạm VN, Chủ nhiệm CLB Doanh nhân họ Phạm Việt Nam
    7. PHẠM KIM NGÂN ,Uỷ viên BLL họ Phạm VN, Uỷ viên Ban Tài chính kiêm Thủ quỹ, Uỷ viên BLL họ Phạm Hà Nội

Đoàn thay mặt BLL họ Phạm Hà Nội viếng gồm:
    1. Phạm Quang Nhuệ, Phó Trưởng ban kiêm Tổng thư ký BLL họ Phạm Hà Nội, Trưởng BLL họ Phạm tỉnh Vĩnh Phúc, Trưởng đoàn
    2. Phạm Kim Ngân, Uỷ viên BLL họ Phạm VN, Uỷ viên Ban Tài chính kiêm Thủ quỹ, Uỷ viên BLL họ Phạm Hà Nội

»»  Đọc tiếp

23 tháng 7, 2011

Bài ca họ Phạm Việt Nam

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 7 23, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Lời BBT:Sáng nay BBT mới nhận được một sáng tác mới của anh
Phạm Thương Phan - nhạc phẩm "Bài ca họ Phạm Việt Nam" xin gửi đến bà con và bạn đọc xem


»»  Đọc tiếp

Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan:

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 7 23, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan:
Người phi công đầu tiên lập chiến công

LGT: Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan được Chủ tịch nước ký Quyết định ngày 28/5/2010 phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, do đó Họ Phạm Việt Nam đã vinh danh Ông tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ngày 29/5/2011 trong Lễ Vinh Danh Nhân Tài Họ Phạm Việt Nam. Sự nghiệp và chiến công của Ông được rẩt nhiều bài báo đăng tải trong suốt 45 năm qua, nhưng chúng tôi chọn đăng bài này của Nhà báo Nguyễn Thành Trung. Bài này chỉ chủ yếu nói về chiến công đầu tiên cuả Ông trên cương vị là phi công, số 1 - chỉ huy biên đội, người đầu tiên bắn rơi máy bay phản lực Mỹ trên bầu trời miền Bắc Việt Nam trong những ngày “cả nước lên đường”. Bài báo đồng thời trả lời thắc mắc của mọi người: “Tại sao sau chiến công lừng lẫy của Ông tới 45 năm, Ông mới được phong Anh hùng?”, mặc dù trong lòng dân thì Ông đã từ lâu và mãi mãi là Anh hùng. Đối với Ông thì điều đó không quan trọng, Ông vui vẻ nói: “Tôi được gặp Bác Hồ 4 lần, Bác có dặn dò chúng tôi: Bác cháu ta tham gia cách mạng là để phục vụ nhân dân chứ không phải để đạt danh hiệu này, danh hiệu kia", nhưng với mọi người, trong đó có tôi, thì đó là một băn khoăn chính đáng. Xin giới thiệu cùng bạn đọc. – Thúy Lan





Tôi gặp lại ông trong ngôi nhà lặng lẽ trên phố Trường Chinh. Ngoài sân, cây ngọc lan, thứ cây mang tên chủ nhân ngôi nhà tỏa hương thơm ngát. Tôi ngồi bên ông, trầm tư tại căn gác 2, nơi gói gọn tất cả hành trang của vị tướng già. Căn phòng nhỏ chứa đầy kỷ niệm trận mạc, một bức ảnh Biên đội Lan - Túc - Quỳ - Phương một thời ngang dọc bầu trời, làm nên chiến thắng trận đầu vang dội trên bầu trời Hàm Rồng lịch sử; một chiếc tủ gỗ đã sờn chứa đầy những kỷ vật của những năm tháng chiến tranh; chiếc piano giúp ông trút những nỗi niềm tâm sự và lấy lại cân bằng sau những giờ làm việc căng thẳng.

Với bao chiến công oanh liệt, từng ném bom Tân Sơn Nhất trong chiến dịch Hồ Chí Minh, từ lâu, ông đã là người phi công anh hùng của Không quân Nhân dân Việt Nam. Nhưng có một điều, chắc còn ít người biết tới, ông chỉ chính thức được phong Anh hùng LLVTND mới đây thôi. Ông cười đôn hậu: “Khi chưa là Anh hùng bác sống như thế nào thì bây giờ là Anh hùng bác vẫn sống như vậy”. Giờ đây, sau 45 năm lập chiến công đầu, ngày 28/5/2010 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho thiếu tướng Phạm Ngọc Lan.

13 tuổi xin cha đi bộ đội

Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan, sinh ngày 19/2/1934 tại xã Điện Nam Đông, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mới 10 tuổi cậu bé Lan đã tham gia thiếu nhi cứu quốc, tập kết lương thực cho Vệ Quốc Đoàn. Lên tuổi 13, Lan nằng nặc xin cha mẹ cho đi bộ đội, nhưng chẳng đơn vị nào chịu nhận cậu.

Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan bên cây đàn piano

Thấy con cứ một mực đòi tham gia cách mạng, người cha đã gặp Trưởng ty Công an Đăk-Lăk đóng tại Phú Yên để xin cho con làm liên lạc viên công an xung phong. Cậu bé Lan nhanh nhẹn, tháo vát, biết bơi, biết chèo thuyền lại có tài cười ngựa, nhiệm vụ dù khó khăn mấy cũng hoàn thành. Khi đó Phạm Ngọc Lan được học thêm văn hóa, cậu nói và viết tiếng Pháp thành thạo.

Năm 1952, vừa tròn 18 tuổi, Phạm Ngọc Lan trở thành chiến sĩ của Trung đoàn 84, rồi được điều về Tiểu đoàn Đặc công 30 thuộc Liên khu 5.

Tháng 10/1954, ông được lệnh xuống tàu tập kết ra Bắc. Trên đường hành quân từ Nghệ An ra Phú Thọ thì nhận được lệnh tập trung về Kiến An, Hải Phòng để học văn hóa, cả sư đoàn chỉ mình Lan được chọn. Kết thúc khóa học, cấp trên phát cho mỗi người một tờ phiếu nguyện vọng. Nhớ lại khi chiến đấu ở đường 19 được xem bộ phim Công phá Béc-lin, ông ước một ngày trở thành người lính lái xe tăng húc đổ cổng dinh Độc Lập.

Ai ngờ, trước khi đi, ông được cấp trên thông báo là học lái máy bay. Cùng đi với ông lúc đó có các đồng chí Trần Hanh, Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Ngọc Độ... những người sau này đều lập nhiều chiến công xuất sắc và đều trở thành anh hùng. Ông học lái máy bay tại Trung Quốc, đến ngày 6/8/1964 thì về nước tham gia chiến đấu.

Chiến công đầu tiên

Lúc 7 giờ, ngày 3/4/1965, các đài ra-đa của ta phát hiện một tốp máy bay địch vào trinh sát khí tượng và trinh sát mục tiêu đánh phá cầu Hàm Rồng. Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân quyết định lệnh cho Trung đoàn không quân tiêm kích 921 xuất kích trận đầu. Hai biên đội tham gia trận đầu gồm biên đội trực tiếp chiến đấu Phạm Ngọc Lan số 1 - chỉ huy biên đội, Phan Văn Túc số 2, Hồ Văn Quỳ số 3 và Trần Minh Phương số 4. Biên đội làm nhiệm vụ nghi binh kiềm chế máy bay tiêm kích địch do Trần Hanh làm biên đội trưởng - bay số 1 và Phạm Giấy bay số 2.

9 giờ 30 phút, 60 chiếc máy bay cường kích của hải quân địch cùng lúc bay vào đánh cầu Tào, cầu Đò Lèn và cầu Hàm Rồng. 9 giờ 45 phút, biên đội làm nhiệm vụ nghi binh và yểm hộ của Trần Hanh được lệnh cất cánh bay về hướng Tây Nam thuộc vùng trời Hàm Rồng - Thanh Hóa. Một phút sau biên đội tiến công của Phạm Ngọc Lan cất cánh hướng 210 độ, tiến về vùng trời Thanh Hóa. Lúc 10 giờ 8 phút biên đội của Lan-Túc-Quỳ-Phương chỉ còn cách địch 45 km trên hướng có lợi cho việc phát hiện mục tiêu. Sau đó 1 phút, Biên đội trưởng Phạm Ngọc Lan chỉ huy biên đội chuyển từ đội hình cảnh giới sang đội hình công kích và phân làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm số 1 và số 2, tốp thứ hai gồm số 3 và số 4.

Biên đội “Lan - Túc - Quỳ - Phương” trong chiến thắng trận đầu lịch sử

Địch không ngờ có máy bay Mig-17 chặn đánh. Vì lần đầu đi chiến đấu, chưa có kinh nghiệm, Phan Văn Túc bay số 2 nhằm mục tiêu bắn một loạt đạn khoảng cách còn khá xa, nên không trúng. Phạm Ngọc Lan lệnh cho số 2 bình tĩnh, giữ đúng vị trí yểm hộ rồi cho máy bay vào tới cự ly bắn có hiệu quả và siết cò súng. Chiếc F-8U bị trúng đạn bốc cháy lao thẳng xuống đất. Đó là chiếc máy bay phản lực Mỹ đầu tiên đã bị Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi trên bầu trời miền Bắc. Phạm Ngọc Lan trở thành phi công đầu tiên của Không quân Nhân dân Việt Nam lập chiến công.

Bốn chiếc Mig-17 vẫn tiếp tục quần nhau với tốp F-8U với số lượng đông hơn nhiều lần. Thêm 1 chiếc F-8U bị Phan Văn Túc bay số 2 hạ. Biên đội được lệnh thoát ly chiến đấu về hạ cánh, lúc đó là 10 giờ 17 phút. Biên đội yểm hộ cũng được lệnh trở về.

Năm chiếc máy bay Mig-17 về hạ cánh an toàn. Riêng Biên đội trưởng Phạm Ngọc Lan phát hiện một chiếc máy bay F-8U của địch bị thương đang tìm cách tháo chạy ra biển liền đuổi theo truy kích, khi ra biển khá xa chiếc F-8U của địch kiệt sức lao ùm xuống biển. Phạm Ngọc Lan quay về...

Cú hạ cánh máy bay trên bãi cát

Tuy nhiên vào đến đất liền thì la bàn bị hỏng, Phạm Ngọc Lan liền lần theo hướng cửa sông Ba Lạt rồi bay theo triền sông Hồng ở độ cao 200m để tìm về căn cứ.

Chưa kịp về đến sân bay Nội Bài thì đồng hồ báo nhiên liệu sắp hết. Sở chỉ huy ra lệnh cho phi công nhảy dù thoát ly, nhưng máy bay là một tài sản lớn của quốc gia lại vừa lập chiến công xuất sắc chẳng lẽ lại để trở thành đống phế liệu. Do vậy, đến lần thứ 3 chỉ huy yêu cầu nhảy dù thoát ly cũng là lúc nhiên liệu sắp cạn kiệt, Phạm Ngọc Lan quyết định tìm một bãi cát ven sông để hạ cánh. Tình huống này mới chỉ được học trên lý thuyết, thực tế thì ở Việt Nam chưa có ai thực hiện. Lan kéo cần lái để ghì thăng bằng máy bay, sau khi máy bay tiếp đất cũng là lúc nhiên liệu cạn kiệt. Chiếc máy bay lướt nhanh trên bãi cát, đến cách đê sông Đuống chừng 15m thì dừng hẳn.

Phạm Ngọc Lan bị ngất do đầu đập vào máy ngắm. Tỉnh dậy nhảy ra khỏi máy bay đi một vòng quan sát chiếc máy bay vẫn an toàn. Nhân dân và du kích tự vệ địa phương ùa đến nơi máy bay vừa dừng nhanh chóng ngụy trang, canh gác bảo vệ và tìm cách báo cáo về Quân chủng Phòng không - Không quân. Chiếc Mig-17 này sau đó tiếp tục tham gia chiến đấu rồi được đưa về Trường Sĩ quan Không quân để phục vụ cho công tác đào tạo phi công.

Người anh hùng sau 45 năm

Là người lính, chiến đấu vì độc lập tự do, ông không đòi hỏi danh hiệu cho riêng mình. Nhưng lịch sử, cần sự công bằng của nó. Qua tìm hiểu được biết, lý do thiếu tướng Phạm Ngọc Lan chưa được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND là từ sự “vênh” trong quan niệm lịch sử.

Trước đây, quan niệm “đánh thắng trận đầu” xác định ngày 3/ 4/1965 ta mới chỉ đánh nhau với Không quân của Hải quân Mỹ (chủ yếu là F-8U và AD-4). Và ngày 4/ 4/1965 ta mới chính thức chiến đấu với Không quân Mỹ (F-105). Sau này, ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Không quân Nhân dân Việt Nam được xác định lại là 3/4/1965. Do vậy, ngày 6/10/2009, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã có Tờ trình số 2226/TTr-BTL đề nghị Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho thiếu tướng Phạm Ngọc Lan.

Và mới đây, ngày 28/5/2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết định số 738/QĐ- CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho đồng chí Phạm Ngọc Lan, nguyên phi công Trung đoàn 921, người góp phần làm nên trận đầu đánh thắng của Không quân Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Nguyễn Thành Trung

http://www.baomoi.com/Thieu-tuong-Pham-Ngoc-Lan-Nguoi-phi-cong-dau-tien-lap-chien-cong/119/5421625.epi





»»  Đọc tiếp

20 tháng 7, 2011

Phạm Đức Sơn nhà Cách mạng kiên trung

Đăng ngày Thứ Tư, tháng 7 20, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Lời BBT: nhân ngày thương binh liệt sỹ chúng tôi xin giơi thiệu cùng bạn đọc bài viết của ông Phạm Văn Dương về đồng chí

PHẠM ĐỨC SƠN NHÀ CÁCH MẠNG KIÊN TRUNG


Mộ Đ/c Phạm Đức Sơn trong nghĩa trang Tp.Hồ Chí Minh

 Người trong ảnh là anh Phạm Kháng Trường,
                                                           con trai đ/c Phạm Đức Sơn
Đồng chí Phạm Đức Sơn (1919 – 1969) còn có các tên: Phan Đức, Tư Trường, Chín Nhỏ..., nguyên Uỷ viên Xứ uỷ Nam Bộ (1954), nhà cách mạng cùng thời với các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Mai chí Thọ..., đã anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968 – 1969, đến nay còn ít người biết đến.

Đồng chí Phạm Đức Sơn quê làng Phù Lưu, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, (nay là khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), gíac ngộ cách mạng từ năm 1936, tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ Phản đế (1936 – 1939), được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940 tại Hà Nội.

Năm 1944, đồng chí vào Nam Bộ xây dưng cơ sở cách mạng ở Gò Vấp Hóc Môn tỉnh Gia Định, tham gí cướp chính quyền ở Hóc Môn và Sài gòn năm 1945. Trong Kháng chiến chống Pháp, đồng chí liên tục hoạt động ở chiến trường Nam Bộ với những cương vị: Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Gia Định, tỉnh Sa Đéc, Uỷ viên Chánh trị trưởng, Quân khu uỷ viên Khu 8, Uỷ viên Ban Tuyên huấn Xứ uỷ, Phó trưởng Ban Đảng vụ (Ban Tổ chức) Xứ uỷ Nam Bộ, Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương cục Miền Nam, Phó Bí thư tỉnh uỷ Sóc Trăng. (Trích Lời Tưởng niệm do đồng chí Võ Viết Thanh, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tich UBND thành phố Hồ Chí Minh đọc tại buổi lễ cải táng đồng chí Phạm Đức Sơn ngày 15.10.1998)
Từ tháng 7.1954, đồng chí được phân công ở lại Miền Nam, tham gia Xứ uỷ Nam Bộ. Xứ uỷ có 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết gồm: Bí thư Lê Duẩn, Phó Bí thư Phạm Hữu Lầu, Uỷ viên Thường trực Hoàng Dư Khương, các Uỷ viên Thường vụ Phan Văn Đáng, Lê Toàn Thư, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Văn Linh, Phạm Thái Bường, các Uỷ viên Phạm Văn Xô, Phan Đức (Phạm Đức Sơn), Văn Viên, Nguyễn Minh Đường, các Uỷ viên Dự khuyết Võ Văn Kiệt, Võ Văn Khánh, Mai chí Thọ. Xứ uỷ chia Nam Bộ thành 3 Liên tỉnh (Miền Đông, Miền Trung, Miền Tây) và 1 khu (Sài Gòn - Chợ Lớn). Liên tỉnh uỷ Miền Đông (gồm 6 tỉnh: Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Gia Định, Tây Ninh, Chợ Lớn) do Phan Đức (Phạm Đức Sơn) làm Bí thư. (Trích Lịch sử Nam bộ kháng chiến - tập 1, trang 518 – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật năm 2010).

Cuối năm 1959, đồng chí ra Miền Bắc chữa bệnh rồi làm Uỷ viên Ban Thống nhất Trung ương. Đến năm 1963, trước yêu cầu mới, đồng chí trở lại chiến trường Miền Nam phụ trách Ban Binh vận Trung ương cục Miền Nam., sau đó về làm Uỷ viên Thường vụ Khu Sài Gòn – Gia Định. Từ cuối năm 1964, đồng chí làm Bí thư Phân khu Bình Tân (gồm huyện Bình Chánh, quận Tân Bình, các quận 5, 6, 3). Đây là chiến trường hết sức ác liệt nhưng đồng chí cùng cán bộ chiến sĩ kiên cường bám trụ, gây dựng cơ sở cách mạng trong nội thành, xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang cho Phân khu. Đến đợt Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), đồng chí đẩm nhiệm Bí thư Phân khu ủy, Chính ủy Phân khu 1 thuộc Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định mở rộng, một khu trọng yếu của chiến trường Miền Nam. Với cương vị phụ trách một mũi tiến công trọng yếu đánh vào Sài Gòn, sào huyệt đầu não của Mỹ - ngụy, đồng chí đã tham gia các đợt tiến công lớn suốt năm 1968 đến đầu năm 1969. Tháng 3.1969, trên đường đi công tác, đồng chí đã anh dũng hy sinh tại Bàu Dưng, ấp Bình Phú, xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh (Trích Lời tưởng niệm của đồng chí Võ Viết Thanh).

Cuối năm 1969, khi biết tin đồng chí Phạm Đức Sơn hy sinh, Ban Thống nhất Trung ương đã tổ chức trọng thể Lễ truy điệu động chí tại Hà Nội. Điếu văn đọc trong buổi Lễ truy điệu đồng chí Phạm Đức Sơn có đoạn viết: "Trong hơn 30 năm đấu tranh cách mạng, khi bí mật, lúc công khai, dù ở Miến Bắc hay Miền Nam, trong Kháng chiến chống Pháp cũng như trong Kháng chiến chống Mỹ, khi phong trào phát triển thuận lợi cũng như lúc tạm thời gặp khó khăn, ở đâu và lúc nào, đồng chí Phan Đức (Phạm Đức Sơn) cũng tỏ ra là một đảng viên, một cán bộ vững vàng và trung kiên của Đảng. Với đức tính cần cù, khiêm tốn, giản dị, với tinh thần cách mạng kiên cường, với lòng tin tuyệt đối vào Đảng, được đồng chí và động bào yêu mến, đồng chí Phan Đức (Phạm Đức Sơn) đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ trọng yếu của Đảng giao cho"

Cùng đi công tác và hy sinh với đòng chí Phạm Đức Sơn, Bí thư Phân khu ủy, Chính ủy Phân khu 1 còn có đồng chí Trần Đình Xu, Tư lệnh Phân khu 1, đồng chí Huỳnh Văn Bánh, Trưởng Ban Bảo vệ Phân khu 1 và 2 đồng chí cận vệ. Năm 1998, gia đình đã tìm thấy hài cốt các đòng chí tại Đồi 82, xã Thạnh Tây, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy tỉnh Tây Ninh, Tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp, Tỉnh ủy tỉnh Sóc Trăng và gia đình đã tổ chức Lễ cải táng đồng chí Phạm Đức Sơn vào hồi 10 gờ ngày 15.10.1998. Các đồng chí Phạm Đức Sơn, Trần Đình Xu, Huỳnh Văn Bánh yên nghỉ sát bên nhau trong Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh.

Vì những công lao to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Dân tộc, ngày 06.11.2001, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho đồng chí Phạm Đức Sơn. Đây là phần thưởng vô cùng cao quý của Đảng và Nhà nước mà đồng chí Phạm Đức Sơn xứng đáng được nhận.

Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có 2 đường phố to đẹp mang tên Trần Đình Xu và Huỳnh Văn Bánh. Hy vọng rằng tên đồng chí Phạm Đức Sơn cũng sẽ được đặt cho một đường phố lớn tại thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố thuộc các tỉnh mà đồng chí đã có nhiều công lao đóng góp. Tên tuổi đồng chí Phạm Đức Sơn xứng đáng được các thế hệ cách mạng ghi nhớ mãi mãi.

PHẠM VĂN DƯƠNG
»»  Đọc tiếp

19 tháng 7, 2011

Hai học sinh họ Phạm được Huy chương

Đăng ngày Thứ Ba, tháng 7 19, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments


Việt Nam giành 7 huy chương Olympic Sinh học, Hóa học
                      Hai học sinh họ Phạm được Huy chương
Đoàn học sinh dự Olimpic Vật lý
 Cục khảo thí Bộ GD&ĐT cho biết, đoàn học sinh Việt Nam tham dự kỳ thi Olympic Sinh học và Hóa học đã giành thêm 7 huy chương.

Trong đó, đoàn Olympic Sinh học dành 3 huy chương đồng, Olympic Hóa học dành 2 bạc và 2 đồng.

Em Trần Thị Ngọc Quý, học sinh lớp 12, Trường phổ thông năng khiếu, ĐHQG TP.HCM và em
Phạm Đăng Huy, học sinh lớp 11, Trường THPT chuyên Trần Phú, Hải Phòng đã xuất sắc giành 2 huy chương bạc Olympic Hóa học quốc tế 2011.

Hai em đạt huy chương đồng là
Phạm Minh Đức, học sinh lớp 12, Trường THPT chuyên Hà Nội -Amsterdam và Võ Duy Việt, học sinh lớp 12, Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định.

Đoàn Olympic Sinh học có 4 em, 3 em được huy chương đồng, và 1 em được bằng khen.


Ba học sinh đạt huy chương đồng bao gồm: Nguyễn Trung Kiên: học sinh lớp 12, trường THPT chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội; Trương Thị Phương Thảo, học sinh lớp 12 trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, Đà Nẵng; Nguyễn Thu Trang: học sinh lớp 11, trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định.


Học sinh Đăng Thu Trang lớp 12, Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định được bằng khen.

Đội tuyển Sinh học tham dự Olympic Sinh học Quốc tế lần thứ 22 tại Đài Loan; đội tuyển Hoá học tham dự Olympic Hoá học lần thứ 43 tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Được biết, đoàn Olympic Hóa học và Sinh học sẽ về Việt Nam trong chiều mai 19/7.

Phạm Thịnh
(Việt báo 18/7/2011)
http://vietbao.vn/Giao-duc/Viet-Nam-gianh-them-7-huy-chuong-Olympic/55393750/202/

»»  Đọc tiếp

17 tháng 7, 2011

Phạm Quang Khoát, một nghị lực phi thường

Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 7 17, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments


Phạm Quang Khoát, một nghị lực phi thường

Có một thanh niên đi xe ba bánh đến cổng Văn Miếu rồi chuyển sang đi bằng nạng gỗ để vào dự Lễ Vinh danh nhân tài và ra mắt quỹ Tấm lòng vàng Họ Phạm Việt Nam. Đó là Phạm Quang Khoát. Em đã nhanh chóng thu hút đươc sự chú ý của mọi người.

Khoát có khuôn mặt thông minh và nụ cười rạng rỡ. Không ai có thể ngờ được rằng em là một nạn nhân chất độc màu da cam!

Khoát sinh ngày 4.1.1989, quê ở Châu Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Cha của Khoát, ông Trường, là bộ đội chống Mỹ tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Nam. Ông đã bị nhiễm chất độc đi-ô-xin, sức khỏe của ông bị ảnh hưởng nhiều và đặc biệt là ông đã để lại hậu quả cho những đứa con của mình. Khoát là con trai lớn của ông, một chân của em đã bị dị tật bẩm sinh - bị bại liệt hoàn toàn, một số bộ phận khác của cơ thể cũng không bình thường; em gái của Khoát, Phạm Thị Hồng, kém anh 1 tuổi, cũng yếu ơt, nay ốm mai đau.

Cách đây 4 năm, Khoát thi đỗ vào Trường Đai học Mở Hà Nội, em vào học Khoa Công nghệ Thông tin, và năm sau thì em gái Khoát tên là Hồng thi đỗ vào Trường Cao đằng Kinh tế Kỹ thuật Hà Nội. Ở vùng quê nghèo, ông bà Trường với sức khỏe không tốt đã phải lên Hà Nội để tìm việc làm nuôi hai con ăn học một cách chật vật. Ông Trường làm đủ mọi việc mà sức ông có thể làm cũng chỉ thu được 1.400.000đ một tháng, còn bà thì xoay xở chợ búa và việc nhà, chẳng kiếm được bao nhiêu.

Mặc dù bị tật nguyền, Khoát chưa bao giờ bi quan hay cảm thấy mình thấp kém hơn so với người khác mà luôn luôn mỉm cười và sống thật hạnh phúc với bố mẹ và em gái. Khoát phấn đấu học giỏi đồng thời tìm mọi cách có thêm thu nhập đỡ cho bố mẹ và sống chan hòa đựoc mọi người yêu mến.

Hiện nay Khoát không chỉ đang học ở Đại học Mở mà còn tiếp tục học và nghiên cứu ở khoa Công nghệ sinh học, Đại học Công nghiệp Hà Nội (HUT). Học đồng thời ở cả hai trường đại học đòi hỏi em phải luôn luôn nỗ lực. Không những thế, Khoát còn tham gia thực hiện một dự án với các giáo sư tại Đại học Nông nghiệp Hà Nội

Khoát gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình, ví dụ như việc đi lên cầu thang hàng ngày là một công việc không dễ dàng cho một người tàn tật như Khoát. Cả ba trường đại học nơi em học và tham gia dự án đều xa nhà nhưng sáng nào em cũng thức dậy thật sớm để đi đến đó làm việc. Khoát rất nhiệt tình trong các hoạt đông xã hội và là một thành viên tích cực của Hội những người tàn tật quận Hoàng Mai.

Khoát còn mở một xưỡng sản xuất xe ba bánh dành cho người khuyết tật, giúp cho một số người khuyết tật có việc làm, có thêm thu nhập cho mình và gia đình, giúp cho người khuyết tật có xe giá hạ sử dụng cho sinh hoạt đi lại. Tôi đã tìm được Khoát chính nhờ dòng Quảng cáo trên mạng của em: “Chuyên chế và lắp ráp xe ga và xe số ba bánh tại Hà Nội và các tỉnh lân cận.

Bạn nào có nhu cầu lắp xe ba bánh tại Hà Nội và các tỉnh cân lận có thể liên lạc với mình. Mình cũng là người khuyết tật và đang sử dụng. Mọi chi tiết xin liên hệ: Phạm Quang Khoát, Hoàng Mai, Hà Nội.Điện thoại: 097.386.7486.  Email: Quangkhoat104@gmail.com”.

Tôi hỏi Khoát về những mơ ước của em hiện nay, Khoát bảo: “Cháu chỉ mơ ước có một chiếc máy tính xách tay và được tham gia một khóa học Tiếng Anh tại trung tâm Apollo để có điều kiện nâng cao chuyên môn và vốn ngoại ngữ. Cháu nghĩ điều đó chắc chắn sẽ giúp cháu có nhiều cơ hội hơn để xin việc sau khi ra trường. Cháu muốn có một công việc ổn định và hợp với khả năng của cháu”. Quả thực, tôi cũng mong cho Khoát được như thế!

Hôm nay, tôi thật sự vui mừng khi nhận được Email của Khoát: “…cháu cám ơn bác cùng BLL Họ Phạm đã quan tâm tới cháu. Cháu xin báo tin mừng với bác là ngày 12.6 vừa qua cháu đã bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp. Cháu đạt 9,77 điểm, làm tròn là 10đ. Hiện nay, cháu đang đi học quân sự 1 tháng ở Xuân Hòa, Vĩnh Phúc….”. Sau đó tôi gọi điện thoại cho Khoát, tôi càng vui mừng hơn khi biết rằng Hồng, em gái Khoát cũng sắp tốt nghiệp Cao đẳng! Tôi lo lắng thấy Khoát đi tập quân sự xa như thế thì sinh hoạt ra sao, nhưng Khoát vui vẻ nói: “Bác yên tâm, cháu vẫn bình thường, cháu không sao, bác ạ”!

Khoát quả là một thanh niên có nghị lực phi thường, biết vượt lên hoàn cảnh để sống một cuộc sóng thật có ý nghĩa, và mặc dù bị tật nguyền nhưng Khoát vẫn vươn lên và sẽ đạt tới tầm cao của xã hội. Tôi rất quý mến Khóat, cầu mong Khoát luôn mạnh khỏe và thành công. Tôi cũng mừng cho ông bà Trường có người con thông minh, giỏi giang và giàu nghị lực đáng nể phục biết bao!

Sau đây là hình ảnh về Phạm Quang Khoát tại Lễ vinh danh nhân tài và ra mắt Quỹ Tấm Lòng Vàng Họ Phạm Việt Nam

                                     P.Q.Khoát trong Lễ vinh danh (người đầu tiên bên trái)

                P.Q.Khoát nhận trợ giúp khó khăn của Quỹ Tấm lòng vàng Họ Phạm Việt Nam

Phạm Thị Thúy Lan
17.7.2011



»»  Đọc tiếp

15 tháng 7, 2011

Tin buồn

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 7 15, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments


Vĩnh biệt nhà báo lão thành Phạm Dân 
TT - Lúc 13g ngày 14-7, nhà báo lão thành Phạm Dân (Phạm Thận) - nguyên phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam - đã trút hơi thở cuối cùng ở Bệnh viện Thống Nhất, TP.HCM sau hơn ba tuần điều trị tại đây.


Nhà báo Phạm Dân sinh năm 1922 tại xã Trực Độ, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Sau khóa học tại Trường Quân chính Hà Nội (từ tháng 8-1945), ông tham gia Vệ quốc đoàn. Tháng 8-1948, ông được cử vào Nam công tác và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Tháng 12-1974, ông là trưởng ban đấu tranh chính trị của Trung ương Cục miền Nam, sau đó được cử đi học tại Trường Nguyễn Ái Quốc từ năm 1975. Từ năm 1977 đến trước khi nghỉ hưu vào tháng 5-1987, ông là phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam tại Hà Nội, phó tổng biên tập Thông tấn xã Việt Nam tại TP.HCM.
Nhà báo Phạm Dân đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý.
Linh cữu của nhà báo Phạm Dân được quàn tại Nhà tang lễ TP.HCM (25 Lê Quý Đôn, Q.3). Lễ viếng bắt đầu từ 8g ngày 15-7, lễ truy điệu lúc 6g ngày 17-7, sau đó an táng tại Nghĩa trang TP.


Báo TUỔI TRẺ

»»  Đọc tiếp

11 tháng 7, 2011

Phạm Phước Hưng, Gương mặt tiêu biểu TDDC Việt Nam

Đăng ngày Thứ Hai, tháng 7 11, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

Phạm Phước Hưng, chàng hot boy thể dục dụng cụ Việt Nam

Phạm Phước Hưng là cái tên quen thuộc trong làng thể dục dụng cụ Việt Nam. Anh chàng điển trai này đã mang về rất nhiều thành tích cho thể thao Việt Nam. Với thành tích hon 30 chiếc HCV cho môn TDDC, vô địch thế giới, HCV hai mùa Seagames gần đây, anh đang là VĐV hàng đầu của TDDC Việt Nam. 
Phạm Phước Hưng đã có rất nhiều thành tích cho TDDC Việt Nam.

Khi còn là cậu học trò hồn nhiên của lớp 1E trường tiểu học Hoàng Diệu, Hưng lọt vào mắt xanh của chuyên gia Trung Quốc chỉ qua một buổi đến tuyển quân. Ban đầu gia đình anh không đồng ý cho theo nghiệp thể thao vất vả này. Sau rất nhiều lần thuyết phục của các chuyên gia, cũng như sự quyết tâm của Hưng, gia đình anh cũng đã đồng ý. Hưng đã phải xa nhà đi tập luyện tại Trung Quốc khi chưa đầy 7 tuổi.

Gần chục năm tập luyện gian khổ ở nước ngoài, năm 2002, Hưng có lần trình làng đầu tiên tại ĐH TDTT toàn quốc và lập tức ẵm ngay một tấm HC vàng. Tại SEA Games 22, Hưng cũng có ngay huy chương. Đến SEA Games 23, Phước Hưng xuất sắc lên ngôi ở đơn môn xà kép với chiếc HCV đầu tiên trong sự nghiệp. Mọi chuyện đang tiến triển tốt đẹp thì một thử thách lớn ập đến cho Phước Hưng sau SEA Games 23. Hưng bị phát hiện lao xương phải ở nhà chữa bệnh và có nguy cơ phải giã từ thể thao. Cột sống của Hưng đã bị ăn mòn hết gần hai đốt, đi bị gù lưng, ngủ phải nằm co tròn người lại cho đỡ đau..., lúc tập và thi đấu đau tưởng như bị gãy xương.

Nhưng Hưng không hề biết là mình có bệnh, và còn bệnh nặng nữa, nên vẫn cố tập luyện và thi đấu bình thường. Ở đại hội TDTT toàn quốc năm đó, Hưng giành HCV môn xà kép, tuy nhiên khi cố gắng hoàn thành bài thi môn xà đơn mà không được, mình mới đi khám và nhận ra bệnh đã ở mức nguy hiểm.

Nhiều người không thể ngờ anh từng vượt qua căn bệnh hiểm nghèo tưởng chừng không khỏi được
để tiếp tục theo đuổi niềm đam mê của mình.

Trong cả năm 2006, khi phải xa TDDC để tập trung trị bệnh, Hưng như người mất hồn và hàng ngày vẫn thơ thẩn đến cung thể thao Quần Ngựa để xem các VĐV nhí tập cho đỡ nhớ. Dù bố mẹ đã định chuyển nghề cho Hưng nhưng cậu kiên quyết không nghe vì "ngoài TDDC thì không yêu, không muốn cái gì khác". Thật may mắn đến kỳ lạ, nhờ quá trình chữa trị và rèn luyện tích cực, đến đầu 2007 bệnh của Hưng khỏi hẳn, không bị di chứng.

Hưng mừng như sống lại lần hai khi được bác sĩ xác nhận rồi lập tức xin thầy cho tập lại ngay, bắt đầu từ những bài thể lực. Đến tháng 6/2007, Hưng trở lại Trung Quốc chuẩn bị cho chiến dịch SEA Games 24. Và không thể tuyệt vời hơn, Hưng đã mang về tấm HCV cho thể thao Việt Nam ở đơn môn xà kép và xà đơn.

Dù không có ưu thế về chiều cao như các bạn khác. Nhưng đến giờ Hưng vẫn đang là nhân vật trụ cột, niềm hi vọng vàng cho thể thao Việt Nam ở bộ môn TDDC.


»»  Đọc tiếp

10 tháng 7, 2011

THÔNG BÁO SỐ 5 CỦA THƯỜNG TRỰC BLL

Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 7 10, 2011 bởi PKDuong · 0 comments






Ngày 3.7.2011, Thường trực Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam đã họp đánh giá kết quả Lễ Vinh danh nhân tài họ Phạm, Lễ ra mắt Quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam và quyết định một số công việc đến cuối năm, trọng tâm là tổ chức Hội nghị toàn thể mở rộng Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam khoá VI và Kỷ niệm 15 năm thành lập Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam. Tham dự có 10 vị, vắng mặt 2 vị ở xa và ông Phạm Quang Hoàn (đã bổ sung vào Thường trực từ tháng 5.2011) đi công tác.

I. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LỄ VINH DANH NHÂN TÀI HỌ PHẠM
VÀ LỄ RA MẶT QUỸ TẤM LÒNG VÀNG HỌ PHẠM VIỆT NAM

Thực hiện chủ trương của Thường trực Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam thành lập Quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam, ngay từ đầu năm 2011, mọi công việc đã được tiến hành hết sức khẩn trương và mạnh mẽ. Có thể nói đây là một "chiến dịch" lớn chưa từng có của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam. Việc vận động tài trợ đã được nhiều nhà hảo tâm và đông đảo bà con họ Phạm hưởng ừng nhiệt tình nên chỉ trong một thời gian ngắn trước và trong buổi Lễ đã thu được 162.250.000 đồng, đủ cho chi phí toàn bộ buổi Lễ (gồm các giải thưởng, học bổng khuyến học, trợ giúp khó khăn và các chi phí vinh danh, chi phí tổ chức Lễ), vẫn còn tồn Quỹ 56.946.000 cho các hoạt động tiếp sau.. Việc tìm tên tuổi , địa chỉ các đối tượng vinh danh, các cháu có thành tích cao, các cháu điển hình vượt khó học giỏi, các gia đình gặp khó khăn đặc biệt...trên phạm vi cả nước hết sức khó khăn do thiếu thông tin. Các uỷ viên Thường trực đã bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức, huy động các mối quan hệ trợ giúp, tìm kiếm rất công phu nên đã chọn ra được các đối tượng xứng đáng. Công việc tổ chức một buổi Lễ quy mô tầm cỡ như vậy cũng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực, Ban tổ chức đã rất cố gắng đảm bảo cho buổi Lễ thành công.

Lễ Vinh danh nhân tài họ Phạm, trao thưởng học sinh thành tích cao, trao học bổng cho các cháu điển hình vượt khó học giỏi và trợ giúp khó khăn cho các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt lần đầu tiên được tổ chức quy mô toàn quốc có ý nghĩa to lớn, phản ánh đúng tâm nguyện của bà con họ Phạm và là một hoạt động lớn theo tôn chỉ mục đích của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam. Buổi Lễ đã được các báo chí, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hinh Hà Nội, Thông tấn xã Việt Nam đưa tin rộng rãi, quảng bá hoạt động của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam. Đặc biệt, Đài Truyền hình Việt Nam còn có hẳn một phóng sự chuyên đề phản ánh công tác khuyến học của họ Phạm Việt Nam qua buổi Lễ tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám và một số địa phương như Thái Bình, Hà Nam...

Tuy nhiên, vì lần đầu tổ chức, thời gian gấp nên không tránh khỏi một số thiếu sót như vắng mặt một số khách mời quan trọng, việc đón tiếp đại biểu chưa thật chu đáo, khâu tổ chức thực hiện có lúc chưa suôn sẻ v.v...

II. TỔ CHỨC HỘI NGHỊ TOÀN THỂ MỞ RỘNG
BAN LIÊN LẠC HỌ PHẠM VN KHOÁ VI
VÀ KỶ NIỆM 15 NĂM THÀNH LẬP BAN LIÊN LẠC HỌ PHẠM VIỆT NAM

Thường trực ban liên lạc họ Phạm Việt Nam quyết định thôi không tổ chức Hội thảo về Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm Việt Nam trong lịch sủ để tập tung vào việc tổ chức Hội nghị toàn thể mở rộng Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam Khoá VI và Kỷ nệm 15 năm thành lập Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam (24.10.1996 – 24.10.2011). Hội nghị sẽ tiến hành vào ngày 23.10.2011 tại Hà Nội (còn dịp giỗ Thượng Thuỷ tổ 20.7 tức 19.8.2011 chỉ tổ chức Lễ Dâng hương tại Đình thờ Ngài).

Thành phần dự Hội nghị gồm toàn thể các Uỷ viên Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam khoá VI, có mời các vị nguyên là Uỷ viên Thường trực từ khoá I đến khoá V, mời một số vị dự kiến sẽ bổ sung vào Ban Liên lạc khoá VI.

Nội dung Hội nghị gồm có:

- Kỷ niệm 15 năm thành lập Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam và trao Bằng Vinh danh cho các vị có nhiều đóng góp cho việc họ trong 15 năm qua.

- Kiểm điểm việc họ từ sau cuộc Gặp mặt đại biểu họ Phạm toàn quốc lần thứ 13 (tháng 9.2010) và đề ra phương hướng hoạt động năm 2012.

- Bổ sung, sửa đổi một số điều trong Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Liên lạc họ Phạm Việt nam.

- Kiện toàn Ban Liên lạc họ Phạm Việt nam khoá VI, để một số vị không có điều kiện hoạt động (do già yếu, thiếu phương tiện hoặc thực tế không hoạt động) thôi tham gia BLL, đồng thời bổ sung một số vị có nhiệt tình, có năng lực và có điều kiện tham gia vào BLL họ Phạm VN, đặc biệt cần tăng cường nhân sự cho bộ phận Thường trực và các Ban chuyên trách. Thường trực BLL họ Phạm VN đề nghị các bộ phận, các địa phương phát hiện, tiến cử những vị có đủ yêu cầu tham gia vào BLL càng sớm càng tốt, chậm nhất là ngày 15.10.2011. Danh sách đề nghị gửi về:
Ông Phạm Văn Dương: Địa chỉ số 12 Ngách 105/1, Ngõ 105, đường Xuân La , Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại (04) 37533380 0913510543 Email phamvanduong7@gmail.com

Cũng nhân dịp Kỷ niệm 15 năm thành lập BLL họ Phạm VN, Thường trực BLL chủ trương xuất bản tiếp cuốn "Biên niên sự kiện BLL họ Phạm VN" và ra một cuốn Kỷ yếu về Kỷ niệm 15 năm hoạt động của BLL họ Phạm VN. Thường trực BLL họ Phạm VN đề nghị các bộ phận, các địa phương phân công người viết bài để đăng vào Kỷ yếu. Nội dung các bài viết nêu bật các hoạt động việc họ đã làm được, trao đổi các bài học kinh nghiệm, biểu dương những gương điển hình làm tốt việc họ v.v... Các bài viết cần hoàn thành càng sớm càng tốt, chậm nhất là ngày 30.9.2011 và gửi về:
Ông Phạm Cầu: Địa chỉ số 6 Ngõ 85, Trung Kính, phường Trung Hoà, Hà Nội. Điện thoại (04) 37843221 01215135667 Emailphamcau@gmail.com

Thường trực BLL họ Phạm VN tin tưởng rằng với sự đồng tâm nhất trí hết lòng vì việc họ của tất cả chúng ta, Hội nghị toàn thể mở rộng BLL khoá VI và Kỷ niệm 15 năm thành lập BLL họ Phạm VN sẽ thành công tốt đẹp.

Thay mặt Thường trực BLL HPVN
Phó Trưởng Ban kiêm Tổng Thư ký
PHẠM VĂN DƯƠNG
»»  Đọc tiếp

8 tháng 7, 2011

Lịch sử và truyền thống họ Phạm Phúc Nam Huân

Đăng ngày Thứ Sáu, tháng 7 08, 2011 bởi PKDuong · 2 comments

Lịch sử và truyền thống họ Phạm Phúc Nam Huân
Xã Đình Phụng, Huyện Kiến X­ương, Tỉnh Thái Bình




LỜI NÓI ĐẦU
“N­ước thì có sử - Họ thì có phả tộc”

Tôi là Phạm Phúc Thiết - Hậu duệ đời thứ 12 của Đức Thuỷ Tổ Phạm Phúc Ngộ.
Từ năm 1997 dòng họ đã giao cho tôi thay mặt cho trưởng tộc để duy trìì nề nếp và điều hành mọi công việc của Tổ, của dòng họ vì trưởng tộc là Phạm Phúc Tiến Công đời thứ 14 lúc này còn nhỏ sau lớn lên đi công tác xa, tôi vừa thay trưởng tộc vừa là phó ban cán tộc của dòng họ kiêm thư ký.
Qua nghiên cứu phả tộc của dòng họ do cụ Sử Lược đời thứ tư, cụ Đồ Văn đời thứ 7, cụ Năm Hợp đời thứ 11 viết để lại nguồn gốc của tổ tiên bằng chữ Hán.
Đến năm 1996 được cụ Vũ Đình Ngạn ở thị trấn Thanh Nê (Kiến Xương) dịch ra chữ quốc ngữ. Qua đó đã có những tư liệu lịch sử, đồng thời thu thập các tin tức mà các cụ truyền lại.
Về phả hệ thì không thể viết ra đây được mà tôi chỉ tóm tắt nguồn gốc lịch sử và truyền thống dòng họ cho để con cháu Tổ biết, để uống nước nhớ nguồn mà tìm hiểu về quá khứ, hướng về cội nguồn, tỏ lòng tri ân với tổ tông, nhớ tới tổ tiên, tới ông bà cha mẹ đã sinh ra, dưỡng dục mình trưởng thành và cùng nhau xây dựng dòng họ đoàn kết, vững mạnh.
Trong việc biên soạn lịch sử và truyền thống dòng họ còng nhiều sự việc, nhiều con số chưa thể hiện lên được. Rất mong con cháu của Tổ cũng như các bạn đọc có điều còn thiếu sót xin được bổ xung tiếp.

Địa chỉ liên hệ:
Phạm Phúc Thiết
Thôn Nam Huân – xã Đình Phùng
huyện Kiến Xương - tỉnh Thái Bình
Điện thoại: 0363 510 581 DĐ: 01642 069 453

Xin chân thành cảm ơn.



Lịch sử và truyền thống
Dòng họ Phạm Phúc

Xuân Tân Mão 2011 này – Dòng họ Phạm đã có 487 năm đón xuân trên đất làng Nang. Đúng như vậy, từ năm 1524 - dưới triều vua Lê Cung Hoàng hiệu Thống Nguyên, Đức Sơ Tổ đã rời quê cũ làng Nụ, Tổng Cam Đường, huyện Bất Bạt, Tỉnh Sơn Tây – nay là Hà Nội, cùng vợ và 3 con về mảnh đất hoang, mặn mới được biển bồi đắp lên lập ấp khai hoang.
Đức Sơ Tổ có 2 người con trai và 1 người con gái:
- Con trai cả: Phạm Vô Vi 13 tuổi
- Con trai thứ: Phạm Phúc Ngộ 11 tuổi
- Con gái thứ 3: Phạm Thị Vĩnh 9 tuổi
Đức Sơ Tổ Phạm Hiếu Đạo cùng với các dòng họ khác khai khẩn đất hoang và đặt tên làng mới lµ lµng Nụ, thôn Nam Đường, Tổng Nam Huân, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định. Nay là thôn Nam Đường, xã Nam Cao, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trải qua bao vất vả của cuộc sống mưu sinh trên mảnh đất đồng bãi ven biển cùng với loạn lạc thời Mạc Phúc Nguyên nên Đức Sơ Tổ đã ra đi ở tuổi 54 vµo ngày 19 tháng 11 âm lịch năm 1553. Thi hài của Đức Sơ Tổ được án táng tại mả Nang, sau này được gọi là “Mộ Tổ Đôi Thôn”. Sau nhiều lần phụng lập tu bổ cho đến năm 2008 con cháu đã nâng cấp khu mộ cho Đức Sơ Tổ to đẹp trang trọng và vững chắc.
Từ khi Đức Sơ Tổ về đến nay đã có 18 đời hậu duệ của người ra đời và trưởng thành. Cháu chắt, chút, chít không chỉ ở xã Nam Cao, Đình Phùng mà còn có mặt ở khắp nơi trên mọi miền tổ quốc và cả nước ngoài. Đức Sơ Tổ là cội nguồn của họ Phạm xã Nam Cao và xã Đình Phùng. Người về lập nghiệp ở Nam Đường quê mới vừa tròn 30 năm thì qua đời, trong suốt 30 năm ấy, với đức tính cần cù chịu khó, hiền hậu, đã nuôi dạy các con khôn lớn trưởng thành bằng 2 bàn tay khai hoang phục vụ nơi đồng chua nước mặn lúc bấy giờ.
Kính thưa các cụ:
Đức Thuỷ tổ Phạm Phúc Ngộ - người con thứ 2 của Đức Sơ Tổ Phạm Hiếu Đạo là người sinh ra các thế hệ con cháu ở thôn Nam Huân xã Đình Phùng hiện nay. Cụ sống cùng cha mẹ được 8 năm ở quê mới, đến năm 1532 niên hiệu Đại Chính - Đức Thuỷ Tổ Phạm Phúc Ngộ của chúng ta đã nhường đất Nam Đường cho anh trai cả là cụ Phạm Vô Vi ở cùng với bố mẹ và em gái. Người đã cùng với 2 dòng họ Vũ - Nguyễn, sau này có thêm họ Trần, họ Đặng tất cả là 5 dòng họ ra khu đất mới để khai hoang lập lên làng mới có tên là làng Nang tổng Nam Huân, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định – nay là xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Năm 1536 cụ xây dựng gia đình với cụ bà họ Đặng và sinh ra 2 người con trai và 1 người con gái.
Con trai cả là cụ Công Xích thường gọi là cụ Trà Lâm tự Thuần Đốc.
Con thứ 2 là cụ Công Giới thường gọi là Hoa tự Phúc Nhân
Con thứ 3 nay là Tổ Cô
Sau khi sinh 3 người con, cụ bà mắc trọng bệnh và mất nhằm ngày 15 tháng 10 âm lịch, lúc đó cụ mới có 24 tuổi. Cụ ông trong cảnh gà trống nuôi con vất vả về sau cụ phải lấy bà kế giúp cụ trông nom chăm sóc dạy dỗ các con khôn lớn trưởng thành.
Vào thời nhà Mạc hỗn loạn, Vua quan tranh giành lẫn nhau, giặc cỏ nổi lên cướp bóc ức hiếp dân thường khắp nơi. Ngày 09 tháng 8 năm 1550 giặc cỏ do tướng quận Úc cầm đầu chia làm 2 mũi đánh vào làng (một mũi từ Minh Giám qua Rưỡng Thông, một mũi từ Lịch Bài – Quang Lịch) Đức Thuỷ Tổ Phạm Phúc Ngộ đã cùng nhân dân các dòng họ chống cự quyết liệt nhưng thế giặc quá mạnh, quân đông, Đức Thuỷ Tổ đã hy sinh trên 1 gò đất cao. Lúc giặc đến, mẹ kế và anh đã đi lánh nạn, chỉ còn lại cụ Công Giới, người con thứ 2 lúc này mới có 12 tuổi quanh quẩn bên cha, đến khi giặc quay trở lại, cụ đã lấy máu cha bôi lên người, lấy xác cha đè lên người mình giả chết dể đánh lừa giặc. Khi chúng bỏ đi rồi cụ công Giới đi tìm mẹ kế và anh trai về để chôn cất cho cha, đến khi tìm được mẹ và anh về đến chỗ cha thì mối đã đùn lên thành mộ. Cho rằng trời đã an táng cho Người nên hai cụ và mẹ kế không đưa đi chỗ khác nữa mà đắp thêm đất vào thành mộ. Người ra đi khi vừa 37 tuổi để lại ba người con thơ dại. Từ đó ngày mùng 9 tháng 8 âm lịch hàng năm trở thành ngày giỗ Tổ của họ Phạm Phúc.
Kể từ khi Đức Thuỷ Tổ Phạm Phúc Ngộ về dựng nghiệp và từ lúc người hy sinh đến nay đã gần 5 thế kỷ, trong gần 5 thế kỷ đã có 17 đời hậu duệ của người ra đời. Và 17 đời con cháu nối chí Đức Thuỷ Tổ ra sức cùng con cháu các dòng họ khác trong làng, vun đắp cho mảnh đất làng Nang – nơi mà người đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu của mình trở thành một địa danh, một địa chỉ nổi tiếng. Chẳng những trong vùng biết đến mà ngay cả 1 số nước láng giêng cũng biết đến làng Nang nơi làm ra sản phẩm gai vó do chính con dâu của Đức Thuỷ Tổ là cụ Nguyễn Thị Nhất Nương - người thôn Chu Trình, Thuỵ Anh nay là huyện Thái Thuỵ đem về truyền dạy. Lúc đó nghề tuy tầm thường nhưng thu lãi lớn, nhân dân có nghề để sinh nhai. Đời đã xa mà dân vẫn nhớ công ơn gần 300 năm đến năm Bảo Đại thứ 10, ngày 15 tháng 8 toàn dân mới truy tư kỷ niệm thờ cúng muôn đời.
Họ Phạm Phúc còn được một số triều đại nhà Lê, nhà Mạc, nhà Nguyễn biết đến vì chính Đức Thuỷ Tổ và các con cháu của người đã có công giúp các triều đại giữ được ngôi vị làm nên nghiệp lớn. Họ Phạm Phúc và hàng chục sắc phong của các triều đại trên. Nhưng sắc phong nổi tiếng đầu tiên cho Đức Thuỷ Tổ Phạm Phúc Ngộ đó là sắc phong thần “Phạm Đại Lang Minh Nghị Đại Tướng Quân” do vua Lê Hiển Tông truy tặng năm 1750 vì đã có công giết giặc giữ gìn non sông xã tắc. Đến năm 1803, nhà thờ Đức Thuỷ Tổ Phạm Phúc Ngộ được xây dựng xong, nhà thờ được gọi là “Thế Miếu”, đồng thời được phép dựng bia hai chữ : “Hạ M•” ở trước cổng có nghĩa bất cứ ai đi qua đều phải xuống ngựa.
Đời thứ 3 cụ Phạm Thu Trung đi Cao Bằng, Lạng Sơn dẹp giặc, sau chuyển về miền trung hoà xã Động Trung phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
“Phụng thờ vị tôn thần Lê triều nam đạo thừa chính sở, Ty thừa chính sở sứ Thọ khang. Phạm phủ quân” đã có công giúp nước giúp dân rất là linh ứng nay nhân lễ mừng thọ tứ thần đại khánh tiết của trẫm ban cho tờ bảo chiến gia ơn long trọng đằng trạch cho cách bách thần. Vậy gia phong là Đức Bảo Trung Bảo Trung Hưng linh phù tôn thần. Chuẩn y cho phùng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ gìn giữ cho nhân dân kính vậy thay. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9.
Đời thứ 5 cụ Phạm Ngũ Đạt đựoc phong Nam tước. Sắc phong của cụ được dịch Ngũ Đạt làm chức phụng thị lại dâng tiền để chi dùng cho việc nước. Vậy chuyển giao cho chức Điền lại tước Nam nay phong cho làm Trung nghĩa Nam tước ở viện Thiền sự. Nay sắc chỉ ngày 25 tháng 6 năm Cảnh Hưng thứ 22 (Chân Định là một phần của Kiến Xương sau này).
“Chế độ phong kiến có 5 tước: Công - Hầu – Bá - Tử - Nam”
Đến đời thứ 7, cụ Phạm Hữu Độ (tức Phu) thời vua Cảnh Hưng, bốn phương có giặc cụ phải nghỉ học đi lính. Khi nhà Lê suy vong, Tây Sơn lên ngôi đã phong cụ là “Bình Bắc Đại Tướng Quân Thái An quận công”. Cụ về nghỉ đến năm Gia Long thứ 8 cụ trở lại lính, cụ làm đồn trưởng thành Quy Nhơn. Khi Gia Long thất trận chạy ra biển, trong gió to sóng lớn cụ đã cứu được vua Gia Long.
Với công cứu Vua thoát nạn, đã phong chức cho cụ “Tiền đồn cơ, Tiền tiếp cơ, Thập nhị cơ, chánh xuất đội trưởng” phong tước “Phu Tài Bá”. Năm Minh Mạng thứ 2, được phong là “Phu Tài Hầu”. Sau này cháu con gọi là “Cụ Hầu”. 12 năm làm quan, từ Gia Long thứ 8 đến Minh Mạng thứ 2 cụ đã qua đời và được đưa về quê an táng. Nay mộ phần nằm giữa nghĩa trang Đình Phùng.
Đời thứ 8, cụ Phạm Kha được nhà vua phong chức “Tư lễ giám tả, Giám thừa trị nội Lệnh sử nhất triều. Năm 14 tuổi cụ đã xuất thân thụ giám ban quản phẩm tòng vương phủ. Năm cảnh Hưng thứ 43 là năm là năm Canh Dần, Trịnh đoan vương tổ mẫu sinh tôn tử cử cụ đi Thanh Hoá Nghệ An cai quản mọi xứ. Cụ không quen rừng thiêng nước độc nên đã qua đời.
Về sau nữa các lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp như Đề Thám, Phan Ba Vành cũng phải ghi công con cháu Đức Thuỷ Tổ. Lúc đó cụ Phạm Hồ và nhiều con cháu của Đức Thuỷ Tổ cầm gương theo nghĩa quân giết giặc lập công…
Sau khi phong trào Cần Vương của các sỹ phu yêu nước, lãnh tụ nông dân và của giai cấp tư sản hoàn toàn thất bại , sứ mạng lịch sử Việt Nam đã chuyển sang giai cấp vô sản do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì con cháu họ Phạm Phúc lại nổi danh được nhiều người biết đến. Ngay từ năm 1929, 4 cháu đời thứ 12 của Đức Thuỷ Tổ là Phạm Quang Lịch, Phạm Lợi, Phạm Đích, Phạm Thuần là những người đầu tiên lập nên một trong những chi bộ Đảng đẩu tiên của tỉnh Thái Bình. Trong đó tiêu biểu nhất là ông Phạm Quang Lịch vừa là xứ uỷ Bắc Kỳ và là Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Thái Bình năm 1933. Người đã hy sinh cả tính mạng và một phần tài sản của mình cho cách mạng, người mà các chiến sỹ cách mạng tiền bối của Đảng cộng sản trong nhà tù Hoà Lò đã gọi “Bành bái Việt Nam”. Và tại chính ngôi “thế miếu” này, năm 1930 ông Phạm Quang Lịch đã tự tay đốt hết văn tự ghi nợ của nhà mình, xoá hết nợ cho người vay. Cuộc diễn thuyết tháng 11 năm 1930 do chi bộ Nam Huân tổ chức để kỷ niệm cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải cũng diễn ra ở đây.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công sau đó là cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân Pháp thì cả tỉnh, huyện lại biết đến làng nang tức Nam Huân bởi con cháu họ Phạm Phúc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng con cháu các họ khác tỏng xã biến Đình Phùng thành căn cứ du kích vào loại kiên cường nhất Kiến Xương. Cũng tại ngôi “Thế Miếu” này đã trở thành xưởng chế tạo vũ khí của quân giới và là nơi cất dấu vũ khí của bộ đội. Vì thế “Thế Miếu” họ Phạm Phúc được nhà nước cấp tỉnh công nhận di tích lịch sử và được thủ Tướng Chính Phủ tặng bằng khen.
Vinh dự cho dòng họ, cụ Phạm Lênh đời 12 là chỉ huy trưởng quân sự xã Đình Phùng được đi dự tổng kết chiến tranh du kích ngày 13/7/1952 tại Việt Bắc. Được Bắc Hồ gửi thư khen ngợi nhân dân xã Đình Phùng, cụ Phạm Lênh được Bắc tặng “huy hiệu Bác Hồ” và được tặng huy hiệu “Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam”.
Xã Đình Phùng trong đó có sự đóng góp của con cháu và họ Phạm Phúc năm 2001 được trao tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi cả nước ta lại phải lao vào cuộc trường chinh chống Mỹ, hai mươi năm trời con cháu họ Phạm Phúc lại cùng cả nước hành quân ra trận. Đã có hai mươi cháu chắt của Đức Thuỷ Tổ được công nhận là lão thành cách mạng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ có hàng nghìn thanh niên trai tráng đã lên đường nhập ngũ vào thanh niên xung phong, chiến đấu và phục vụ trên các mặt trận. Trong hai cuộc chiến đấu trường kỳ ấy Đức Thuỷ Tổ đã hiến dâng cho đất nước hàng trăm liệt sỹ, là cháu chắt chút chít của Tổ và được nhận năm danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Đó là mẹ Phạm Thị Giữa, Phạm Thị Cả, Phạm Thị Vui, Phạm Thị Cúc, Phạm Thị Thảnh. Được nhận một danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang đó là Trung tướng Phạm Phú Thái đời thứ 13. Con cháu của Tổ đã có hai người đựơc phong hàm cấp Tướng là Phạm Luận tức Nguyễn Nam - thiếu tướng đời thứ 12 và Phạm Phú Thái trung tướng đời thứ 13. Có 18 sỹ quan thượng, đại tá. Còn hàng trăm cháu chắt của Tổ là cán bộ sỹ quan trung, sơ cấp đang công tác tại các đơn vị lực lượng vũ trang và lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan nhà nước hoặc đã nghỉ hưu. Để đền đáp công ơn của Đức Thuỷ Tổ, ngày 25 tháng 11 năm Nhâm Tý (1803), các cụ cùng toàn thể con cháu trong họ đồng lòng quyết định xây nhà thờ Tổ. Đến năm Minh Mạng thứ 5 năm Giáp Ngọ thì đã xây dựng xong 5 gian nàh thờ trong gọi là hậu cung.
Giờ Kỷ Tụ ngày Giáp Thân tháng 12 năm Ất Sửu (1806) xây dựng nhà ngoài gọi là bái đường. Đến ngày Kỷ dậu 26 tháng 7 năm Bính Ngọ, họ tổ chức lễ khánh thành, ngày 27 tháng 7 rước Tổ về an vị.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng đã tàn phá đót cháy hết, hoà bình lập lại con cháu Tổ quyết định xây dựng lại nàh thờ từ năm 1956 năm gian hậu cung, nhà bái đường năm 1992 làm được 5 gian, đến năm 2007 con cháu Tổ nâng cấp lên vững chắc và to đẹp khang trang cho đến nay. Về phần mộ Đức Thuỷ Tổ ông và Đức Thuỷ Tổ bà vì điều kiện kinh tế sau chiến tranh còn hạn hẹp đến năm 1975 con cháu mới xây dựng, phung lập. Và đến năm 1995 đã được tu bổ và nâng cấp lần thứ nhất. Nhưng đến năm 2010 nguyện vọng của con cháu Tổ xa gần phải nâng cấp 2 khu mộ của Đức Thuỷ Tổ để xứng với công lao, truyền thống lịch sử của Tổ xứng với một dòng họ đông con nhiều cháu. Con cháu đồng tâm nhất trí đóng góp tiền của để tu bổ, nâng cấp, tôn tạo. Đã có nhiều con cháu Tổ gần xa đã phát tâm công đức đã gửi tiền của về để xây dựng hai khu mộ đã được khởi công ngày 12/10 năm Canh Dần và hoàn thành ngày 24/12 năm Canh Dần (2010) được bề thế vững chắc và to đẹp.
Về lễ tiết gia phong của dòng họ hàng năm: Họ tổ chức 6 tiết tế trong năm
- Tế xuân đầu năm 3-4 tháng giêng
- Tế Thanh Minh
- Tế giỗ Đức Thuỷ Tổ «ng vµo ngµy 9-8 âm lịch.
- Tế giỗ Đức Thuỷ Tổ bà: 15-10 âm lịch
- Tế giỗ tổ bà Gai Vó 15-8 âm lịch
- Tế tiết Đông chí.
Tất cả các tiết tế phân công cho các chi, các phái sửa lễ tế Tổ.
Họ đã tổ chức, duy trì hai đội tế: đội tế nam quan tÕ vµo chÝnh giç, đội tế nữ quan tÕ vµo chiÒu h«m tr­íc để phụng sự Tổ những tiết tế trong năm, cháu chắt của Tổ xa gần, đã nhớ đến công ơn của Tổ để lại phúc ấm cho đời sau. Cho nên đã thành tâm đóng góp công sức, tiền của và hiện vật về để tu bổ, nâng cấp xây dựng khu nhà thờ Tổ được đẹp đẽ, khang trang, bề thế vững chắc. Vì “Thế Miếu” không những là nơi để mà thương, mà nhớ mỗi khi nghĩ về nguån gốc của mình.
Những người có đời sống, vì sự nghiệp hoặc vì một lý do nào khác phải sống ở nơi đất khách quê người không khỏi có lúc chạnh lòng nhớ về đất Tổ những phút giây ấy hãy hướng về “Thế Miếu” của Họ và chắc chắn sẽ cảm thấy lòng mình thanh thản hơn, từ giữa thế kỷ 20 sang thế kỷ 21 còn cháu tổ đời 12-13-14-15 đã có nhiều người giữ chức vụ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ quan nhà nước. Và đặc biệt một gia đình hai cha con là Bí thư tỉnh uỷ là Phạm Quang Lịch đời 12. Xứ uỷ Bắc Kỳ làm bí thư tỉnh uỷ Thái Bình năm 1993, con là Phạm Bái uỷ viên Trung ướng làm Bí thư tỉnh uỷ huyện Kiến Xương và con là Phạm Anh Đức đời thứ 13 làm chủ tịch huyện Kiến Xương. Gia đình có hai cha con làm chủ tịch xã là cụ Phạm Ảm đời 13, con là Phạm Bình đời 14 và còn nhiều người giữ chức vụ chủ chốt như: cụ Phạm Thuần đời 12 là chủ tịch tỉnh Phú Thọ; Phạm Tôn đời 12 chủ tịch lâm thời huyện Kiến Xương; Phạm Thị Minh đời 13 phó chủ tịch huyện Kiến Xương,…
Về học vấn của dòng họ: con cháu của Đức Thuỷ Tổ, cũng là dòng họ hiếu học. Thời kỳ phong kiến chưa có ai đỗ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Nhưng số người đỗ cử nhân, tú tài khá nhiều:
- Người đầu tiên là cụ Phạm Công Bình đời thứ 5 đỗ tú tái năm Mậu Tý. Vĩnh Thỉnh thứ 4 bổ nhiệm làm Phủ hiệu sinh.
- Cụ Phạm Công Nhâm 25 tuổi đỗ tú tài năm Giáp Ngọ.
- Cụ Phạm Quốc Tạ đỗ tam trường năm Nhâm Tý
- Cụ Phạm Năng đõ tam trường năm Nhâm Tý
- Cụ Phạm Khắc Tiễn đời thứ 7 có 4 con làm Tổng trưởng, tổng số có 5 con và cháu đỗ tú tài.
- Cụ Phạm Tuấn Kiệt đỗ tú tài khoa Đinh dậu. Đến năm Minh mạng đỗ tú tài lần 2, được bổ nhiệm làm huấn đạo huyện Võ Giàng và Gia Lộc.
- Cụ Phạm Tốn đỗ tú tài 3 khoá: Nhâm dần, Quý mão và Nhâm tuất
- Cụ Phạm Tẩy đỗ tú tài 2 khoá năm Giáp tý và Mậu thìn
Thời Tự Đức 24 phong cho cụ làm “Lâm Sỹ Lang” cung phung và năm đầu Hàm Nghi đựơc phong “Chánh bát phẩm:… và còn rất nhiều cụ đỗ tú tài, cử nhân văn hay chữ tốt. Sở văn hoá đã lưu trữ nhiều bài văn thơ hay như cụ Phạm Ngô “Nhì Ngô), cụ Tú Diễn,…
Ngày nay, con cháu Tổ cũng đã có được học vị Tiến sĩ, thạc sĩ, có người trở thành nhà khoa học đang làm việc trong các viện nghiên cứu, số có bằng cử nhân thì không kể hết. Điều đáng mừng là thế hệ thanh thiếu niên hiện nay cứ đến tuổi là đựơc cắp sách tới trường, khí thế thi đua học tập giỏi đang thực sự sôi động trong lòng thế hệ trẻ. Con cháu Đức Thuỷ Tổ đã xác định được học là con đường sống, học là để lập thân, lập nghiệp, học để tạo dựng cuộc sống âm no cho mình – cho xã hội để xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Đến nay, con cháu Tổ đã ghi nhận được 4 danh hiệu nhà giáo ưu tú. Đó là Phạm Phóc Quý đời 12, Phạm Phóc Chấn đời 13, Phạm Phóc Hoà đời 14, Phạm Phóc Thanh Tản đời 14.
Vươn lên để sánh vai với người khác cùng phẩm chất ngay thẳng, trung thực, bao dung, vị tha trong cuộc sống, cái chính bao trùm là phẩm chất cao đẹp. Để phát huy truyền thống văn hoá và lòng hiếu học của con cháu trong dòng họ. Họ đã quyết định thành lập Hội khuyến học của dòng họ do ông Phạm Mẫn hội trưởng và ông Phạm Phóc Đức Thể hội phó đã khai trương vào ngày 15/8/2009. Và các cháu thi đỗ đại học, cao đẳng được trường chứng nhận học giỏi gửi về Họ. Đến nay đã được các bậc ông bà, cha mẹ, anh chị em những người đi trước với tấm lòng tất cả vì thế hệ trẻ đã gửi tiền đóng góp xây dựng quỹ khuyến học. Và thay mặt cho dòng họ gần xa hãy vì thế hệ trẻ nhiệt tình ủng hộ và đóng góp cho quỹ khuyến học của dòng họ lớn mạnh.
Họ tộc giữ được nề nếp gia phong bảo đảm tế lễ thường xuyên và điều hành mọi công việc của họ ngoài trưởng tộc ra còn có ban cán tộc ngay từ những ngày đầu xây dựng nhà thờ. Ngày đông chí tháng 11 Ất Tý họ đã quyết định cả ra ban cán tộc của dòng học gồm 4 người đó là cụ Hạt, cụ Pháp, cụ Phố, cụ Giang. Cứ đời trước truyền đời sau kế tiếp cho đến ngày nay ban cán tộc gồm:
Ông Phạm Phúc Sông Lô - Đời 13 Trưởng ban
Ông Phạm Phúc Thiết - Đời 12 Thư ký
Ông Phạm Phúc Đức Thể - Đời 14 Thủ quỹ kiêm phó ban
KhuyÕn häc
Ông Phạm Phúc Mẫn - Đời 13 Uỷ viên, trưởng ban
KhuyÕn hocl
Ông Phạm Phúc Hải Lý - Đời 13 Uỷ viên
Ông Phạm Phúc Lãm - Đời 15 Uỷ viên
Ông Phạm Phúc Hồng Thăng - Đời 14 Uỷ viên
Vẫn được duy trì để điều hành mọi công việc của Tổ: Tế, lễ, tu bổ, xây dựng và việc đối nội ngoại là trung tâm đoàn kết của dòng họ và địa phương, góp phần vào công cuộc xây dựng dòng họ đoàn kết và vững mạnh./.





»»  Đọc tiếp

3 tháng 7, 2011

GS Phạm Vinh Quang - Sống là cống hiến

Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 7 03, 2011 bởi Phạm Đạo · 0 comments

GS Phạm Vinh Quang - Sống là cống hiến

LGT: Sáng ngày 29/05/2011, tại Văn Miếu - Quốc Từ Giám, Ban Liên lac họ Phạm Việt Nam đã long trọng tổ chức Lễ Vinh danh Nhân tài họ Phạm, trong buổi Lễ có Vinh danh Tiến sĩ, Đại tá, Nhạc sĩ Phạm Vinh Quang được phong Danh hiệu Giáo Sư năm 2010, sau đây xin giới thiệu.


Giáo Sư, Tiến sĩ, Đại tá, Phạm Vinh Quang, sinh năm 1956 tại Hà Nội.

Ông là Chủ nhiệm Bộ môn Khoa Phẫu thuật Lồng ngực và Tim mạch, Viện Quân y 103.

Ông đã đào tạo nhiều Nghiên cứu sinh, Cao học chuyên khoa, Chủ trì và tham gia nhiều Đề tài khoa học cấp Bộ và Nhà nước, Chủ biên 9 quyển sách chuyên khoa; Đã công bố hơn 60 bài báo trong và ngoài nước.

Đặc biệt Giáo sư Phạm Vinh Quang là một nhạc sĩ đã có công trình âm nhạc cống hiến trong dịp Lễ hội 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Trong ngày Lễ Vinh danh Nhân tài họ Phạm, ông đã trình bày 2 ca khúc “Sống” và “Hiếu thảo” do ông sáng tác.

Hết lòng vì bệnh nhân

Nếu ai đó có dịp thăm phòng làm việc của ông tại Bệnh viện 103, chắc cũng sẽ giật mình vì quá đỗi giản dị. Ông chỉ nhún vai, mỉm cười: “Trên đời này không có gì đẹp bằng quả tim người khi nó còn đang đập. Cảm xúc tuyệt vời nhất đối với tôi là quả tim nhỏ nhoi ấy lại đang đập trên tay mình. Màu tim tím của các tĩnh mạch, màu đỏ của động mạch, màu vàng của mỡ… tất cả không phải là một bức tranh chết, mà chân thực, sống động. Nếu ai ý thức được sự sống ngàn vàng ấy, thì chuyện ăn, ở chỉ là phù phiếm”.



Ai đó nói rằng: “Phẫu thuật viên giỏi phải trưởng thành trên nghĩa địa”. Thế nhưng, gần 30 năm trên cương vị bác sĩ, ông chưa bao giờ mắc sai lầm và ông cũng không thể nhớ rõ bao lần giành lại người bệnh từ tay tử thần.

Người bác sĩ đa tài

Chưa đầy 6 tháng nhận chức Trưởng khoa, ông đã cùng tập thể bộ môn, khoa phẫu thuật lồng ngực phát triển và áp dụng nhanh chóng, thành công nhiều kỹ thuật mới, đặc biệt là phẫu thuật nội soi trong chuyên ngành phẫu thuật lồng ngực. Song song với niềm đam mê khoa học, tình yêu nhạc vẫn luôn nồng nàn.

Từ nhỏ, nhạc sỹ - giáo sư Phạm Vinh Quang được đào tạo âm nhạc tại trường âm nhạc Việt Nam. Học cùng khoá với nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân và nhiều nghệ sỹ khác hiện cộng tác tại hội nhạc sỹ Việt Nam, dàn nhạc giao hưởng hợp xướng Việt Nam, nhạc viện Hà Nội…. người làm trong ngành y, nhưng ông lại có niềm đam mê âm nhạc và được đào tạo rất bài bản.



Sinh ra và lớn lên Hà Nội, năm lên 8 tuổi ông theo học khoa sáo Trường âm nhạc Việt Nam. Năm 1968, ông trúng tuyển và theo học lớp tiếng Nga của trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà nội. Năm 1972, ông theo học khóa đào tạo bác sỹ dài hạn của Học viện Quân y và tốt nghiệp bác sỹ năm 1979. Ông được giữ lại trường và được phân công về công tác tại bộ môn khoa phẫu thuật lồng ngực- mạch máu - nội tiết - Bệnh Viện 103 - Học viện quân y. Năm 1989, ông được cử đi nghiên cứu sinh tại Viện Hàn lâm y học quân sự ở Bad Saarow, Cộng hoà dân chủ Đức.

Không chỉ giỏi tiếng Nga và tiếng Đức, Phạm Vinh Quang còn sử dụng tốt tiếng Anh và Pháp. Bằng tình yêu và lòng kính trọng nhạc sĩ Đỗ Nhuận, ông đã dịch bài hát Việt Nam quê hương tôi và nhiều ca khúc Việt Nam khác sang nhiều thứ tiếng. Cũng chính nhờ vốn ngoại ngữ giỏi, ông thường xuyên được giao nhiệm vụ phiên dịch trong các Hội nghị Y học quân sự Việt Nam - Hoa Kỳ, phiên dịch cho một số đoàn khách từ Mỹ, Singapore... sang thăm Học viện và Bệnh viện 103. Ông còn còn tham gia viết và biên soạn nhiều giáo trình, giáo án, sách phục vụ trong ngành Y khoa như cuốn Phẫu thuật lồng ngực phần cơ sở, Phẫu thuật lồng ngực phần bệnh học.

Một người luôn bận rộn với công việc làm thầy thuốc cứu người nhưng kho tàng các sáng tác của anh quả là không nhỏ với trên 100 tác phẩm trong đó có các tác phẩm được nhiều người yêu thích như Sống, Thầy tôi, Thuyền và biển cùng các bản hợp xướng Mái trường thân yêu, Mẹ tôi, Ký ức mái trường và mới nhất là bản hợp xướng ba chương Hà Nội ngàn năm.



Nhân dịp Lễ hội 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, bản giao hưởng hợp xướng về “Hà Nội nghìn năm” của nhạc sỹ Phạm Vinh Quang là bức tranh lịch sử sống động của Hà Nội từ thời vua Lý Thái Tổ rời đô về Thăng Long Hà Nội đến Đại La, Bắc Thành, Tống Bình, Đông Kinh rồi một Hà Nội anh hùng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cuối cùng là một Hà Nội trải qua bao biến cố nhưng vẫn kiên cường khí phách của mảnh đất Thăng Long nhân kiệt.



Đây sẽ là một đêm nhạc hoành tráng và ấn tượng với sự tham gia của hơn 160 ca sỹ, diễn viên, nhạc sỹ Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung Ương. Ngoài ra, trong phần 1 của đêm nhạc sẽ là phần các ca khúc trữ tình của nhạc sỹ Phạm Vinh Quang như: Thầy tôi, Hương Bách Hợp, Chờ em, Sóng, Lời của biển, Tình ca không lời, và Tình Anh…được thể hiện bằng các giọng ca sâu lắng, trữ tình của các ca sỹ nổi tiếng như: Việt Hoàn, Tấn Minh, Lê Anh Dũng, Minh Đức, Lương Huy…sẽ rất lôi cuốn khán giả.



Phạm Đình Điểu - Tổng hợp từ: www.baomoi.com / www.vov.vn
»»  Đọc tiếp
 
Trang web của BLL Họ Phạm Việt Nam chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 2/2005. Xem phiên bản cũ tại đây
Vui lòng để liên kết về nguồn tin nếu bạn xuất bản lại thông tin trên trang web này.


Trang web được xây dựng từ nền tảng Blogger.com, cung cấp bởi