Tìm hiểu
chứng cứ đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man của PGS. TS Lê Đình Sỹ
Tháp Bút
Ba mươi
năm, một chặng đường dài kể từ ngày tôi cắp sách đến trường. Là cậu học trò
thích đọc chuyện kể về danh nhân, nên sự kiện thành lập nhà nước Vạn Xuân có
vua Lý Nam Đế và bề tôi: Triệu Túc, Tinh Thiều, Phạm Tu là điều sáng sủa, rành
mạch trên trang sách nhà trường. Năm 2006, theo sự kết nối dòng họ, nhân ngày
hóa của Đô Hồ Đại vương Phạm Tu, tôi đến dự lễ tại Đình Ngoại xã Thanh Liệt,
Thanh Trì, Hà Nội. Qua các phương tiện truyền thông tôi thấy có vấn đề đồng
nhất Phạm Tu với một vị tướng cùng thời là Lý Phục Man quê ở Yên Sở, Hoài Đức,
Hà Nội. Mặc dù không là nhà nghiên cứu chuyên môn về lịch sử, nhưng tôi rất
quan tâm đến vấn đề đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man (gọi tắt là vấn đề đồng nhất). Như nhà sử học Lê Văn Lan đã nhận định “là vấn đề sử học nêu ra đã lâu nhưng chưa
được giải quyết” do vậy vấn đề khoa học này không hề giản đơn nhưng cũng
cần sớm làm sáng tỏ.
Để tìm hiểu vấn đề, tôi sưu tầm hầu hết các tài liệu
xuất bản liên quan đến hai nhân vật, đã có hàng chục ấn phẩm sách báo bàn về
vấn đề đồng nhất. Mới đây, PGS-TS Lê Đình Sỹ (PGS-TS
LĐS) đăng bài “Danh tướng Phạm Tu và Lý
Phục Man là một hay hai người?” trang 72-74 của tạp chí Lịch sử quân sự số
235 (7-2011). Tác giả “trân trọng” ý kiến chứng minh không thể đồng nhất hai
nhân vật và cho là họ “suy đoán”. Sau đó, PGS-TS LĐS đưa ra 4 chứng cứ cho rằng
quan niệm Phạm Tu và Lý Phục Man là cùng một nhân vật lịch sử thì hợp lý hơn.
PGS-TS LĐS cũng đã soạn hai cuốn sách có liên quan đến vấn đề đồng nhất như
sau:
Thứ
nhất, cuốn “Lịch sử quân sự Việt Nam”
Tập II của Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội in năm 2001 do GS. Trần Quốc Vượng
và Lê Đình Sỹ chủ biên đã không khẳng định việc có thể đồng nhất hai nhân vật: “Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người
và quan hệ với nhau như thế nào, đấy là một vấn đề được đặt ra từ rất lâu,
nhưng chưa đủ cứ liệu khoa học để kết luận.” Nhưng chính trong cuốn
sách này lại có nhiều chỗ dùng thông tin về Lý Phục Man ở Yên Sở rồi thay tên
Phạm Tu vào, theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Đơn cử như câu: “Năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã
sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu” (xem phần sau có trích Đại Việt sử ký toàn thư để thấy sự thiếu chính xác của câu này viết
về Lý Phục Man mà không liên quan đến Phạm Tu). Trong tất cả các bài viết GS.
Trần Quốc Vượng không đồng nhất 2 nhân vật, nêu rõ ràng và thống nhất: Phạm Tu
là lão tướng quê ở Thanh Liệt. Không rõ tại sao trong cuốn sách mà ông chủ biên
cùng tác giả Lê Đình Sỹ lại có sai sót không đáng có như vậy?
Thứ hai, trong cuốn “Thăng
Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm” được Nxb. Hà Nội cho in
nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long. Trang 48, 49 cuốn này có viết về lão tướng
Phạm Tu như sau: Phạm Tu là lão tướng;
người làng Cổ Sở; khi hy sinh thi hài của ông được đưa về bến Hồ Mã và
năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở,
đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu. Theo biên bản họp nghiệm thu bản thảo cuốn Thăng
Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm của PGS. TS Lê Đình Sỹ,
có nhận xét của PGS. TS Viện trưởng Viện Sử học Nguyễn Văn Nhật là: Một số
khái niệm cần thống nhất: Lý Phục Man và Phạm Tu, là một người hay 2 người
(Tr. 47, 48), …. Đặc biệt là ý kiến của GS Phan Huy Lê kết luận: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1
người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất, tác giả không nên khẳng định.”
Vậy nhưng sự bất hợp lý vẫn tồn tại trong cuốn sách này.
Để thấy
được tính chính xác mà PGS-TS LĐS khai thác từ
chính sử chúng tôi xin trích các nội dung liên quan cho dễ đối chiếu đồng thời
để thuận lợi khi trình bày các nội dung phân tích tiếp theo:
Cuốn Đại Việt sử ký
toàn thư - bộ chính sử lớn của nước ta đã ghi:
«Mùa hạ, tháng
4 năm Quý Hợi (543) vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng Phạm Tu đánh
tan giặc ở quận Cửu Đức.»
và:
«Mùa Xuân,
tháng Giêng năm Giáp Tý (544), vua lên ngôi, xưng là Nam Việt Đế, lấy niên hiệu
là Thiên Đức, đặt trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân là ý mong xã tắc truyền
đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái
Phó, lấy Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn, tướng võ.»
Đó là việc chép về Phạm Tu ở giữa thế kỷ thứ VI. Danh
tướng Phạm Tu là nhân vật lịch sử xuất hiện trong sự kiện cụ thể (có không
gian, thời gian và địa điểm) với vị trí chỉ huy rõ ràng đứng đầu quân đội.
Còn về sự xuất hiện của thần Lý Phục Man: vào năm 1016,
trong giấc mộng của Lý Thái Tổ cũng ghi rất cẩn thận ở cuốn Đại Việt sử ký toàn thư. Thông tin có
thể đã lấy theo ghi chép của quan Ngự sử Lương Văn Nhậm cùng đi với Lý Thái Tổ
và được nhà vua kể lại ngay sau giấc mộng:
«Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy
hai lạy, nói: “Thần là người làng này, họ
Lý tên Phục Man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao
trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm
biên giới, một phương yên bình. Đến khi chết, Thượng đế khen là trung trực, sắc
cho giữ chức như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả.
Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi”. Rồi
đó thung dung nói: “Thiên hạ khi mờ tối,
trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”.
Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm rằng: “Đó là ý thần muốn tạc tượng”.»
Từ trong
chính sử chúng ta thấy chỉ có điểm chung giữa hai nhân vật này: là võ tướng
thời Lý Nam Đế.
Sau đây lần
lượt xem xét các chứng cứ mà PGS-TS LĐS đã đưa
ra trong bài báo nêu trên.
Chứng cứ thứ nhất: Chính sử khi viết về khởi nghĩa Lý Bí không chép về Lý Phục Man mà chỉ chép Phạm
Tu được Lý Bôn (Lý Bí) cử đi đánh và phá tan được giặc Lâm Ấp ở Cửu Đức.
Còn theo dã sử Việt điện u linh của
Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), văn bia ở Quán Giá soạn năm Bảo Thái thứ 9 (1728) và
nhiều truyền thuyết cho rằng chiến công đánh tan quân Lâm Ấp thuộc về Lý Phục
Man. Thời Lý Bí chỉ có một lần đánh Lâm Ấp do đó Phạm Tu chính là Lý Phục Man.
Xem qua chứng cứ rất
hợp lý, nhưng xét kỹ để thấy độ tin cậy của chứng cứ đầu tiên này.
Trước hết tài liệu đồng
nhất đáng tin cậy được dựa vào là cuốn dã sử Việt điện u linh, cách nay đã 7 thế kỷ đã có bản dịch tiếng Việt và
tiếng Anh. Có thể nhận ra có nhiều nội dung bản tiếng Việt được người đời sau
thêm vào như cuốn “Việt điện u linh tập” (do dịch giả Lê Hữu Mục toàn biên và viết dẫn
nhập tại Huế năm 1959, Khai Trí, Sài Gòn, 1961) có phần đầu viết theo Sử ký của
Đỗ Thiên, phần sau có Tiếm bình (viết
nói đến nhân vật Lê Anh Tuấn người làng Thanh Mai, đỗ Tiến Sĩ năm Giáp Tuất
-1694) và Phụ lục là Sự tích đền thờ thần xã An Sở.
Phần đầu theo Sử ký không nói đến việc Lý Nam Đế cử Lý
Phục Man đi đánh Lâm Ấp, việc đánh Lâm Ấp được kể trong Phụ lục, nội dung này được chép theo Đại Việt ngoại sử đối chiếu với văn bia ở Quán Giá năm Bảo Thái thứ
9 khá giống nhau.
Như vậy các tư liệu dã
sử, truyền thuyết về việc Lý Phục Man được cử đánh Lâm Ấp thống nhất theo văn
bia Bảo Thái
thứ 9 có xuất xứ rõ ràng và nay vẫn còn
tồn tại.
Theo
văn bia Quán Giá
Tư liệu rất
quan trọng ở đền thờ của Lý
Phục Man là 5 văn bia: Bia thời Vĩnh Tộ (năm 1620), bia thời Cảnh Trị (năm
1670), bia thời Bảo Thái (năm 1728), bia thời Gia Long (năm 1803), bia thời Tự
Đức (năm 1855).[1] Không thể tìm ra một chữ
nào ở 5 văn bia nêu trên viết về Phạm Tu. PGS. TS Trương Sỹ Hùng đã viết “còn
năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói
đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần.”
Qua cuốn Văn bia Quán Giá của Nguyễn Bá Hân in
năm 1995 ghi nguyên văn và bản dịch văn bia thời Bảo Thái (năm 1728) cho thấy:
Trang
173 có đoạn dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 152: Nãi
tuyên chế sử Tổng Soái chư tướng vãng ngự chi Toại đại phá Lâm Ấp vu Cửu Đức,
với nội dung liên quan:
Xem
trang cuối trang 173, đầu trang 174 (dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 153: Nãi dĩ kỳ đa phục man di chi công Tứ
danh Phục Man Tứ tính Lý Thị Thượng công chúa Siêu thăng Thiếu Úy tham nghị mộ
phủ Nghị thị bách liêu)
Như vậy đọc
phần dịch nghĩa bia Bảo Thái (năm 1728) xuất hiện chú thích đáng lưu ý của ông
Nguyễn Bá Hân ở hai trang 173, 174. Qua hai chú thích này có thể thấy ông
Nguyễn Bá Hân đã đồng nhất không có cơ sở chắc chắn.
Dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, xét nội dung theo văn bia
Quán Giá: Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy
Qua lời Thần xưng với Lý Thái Tổ: “làm
tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải
sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”, chúng ta thấy chức vụ cao nhất của thần là
tướng giữ vùng biên cảnh phía tây (như Tư lệnh quân khu sát biên giới ngày nay)
điều này lại được khẳng định: “Đến khi
chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ”. Như đã ghi
trong chính sử, hoàn toàn không nói đến việc thần đã làm tướng đánh Lâm Ấp và
không đứng đầu quân đội như thống lĩnh chư tướng, không là Thái úy.
Như vậy cả Lý Nam Đế và Thượng đế đều giao cho Tướng quân “trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường
Lâm”. Bản thân Lý Thái Tổ cũng
giao cho Thần vị trí này và được viết rất khéo: “Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi.”
Phạm Tu khi hy sinh chắc chắn vẫn là người đứng đầu hàng Võ của nhà nước
Vạn Xuân. Nếu Tướng quân được ghi trong chính sử là trưởng ban Võ, Tả tướng,
đứng đầu quân đội mà đến cuối lại đi trông coi một vùng biên cảnh phía tây thì
đúng là Tướng quân bị giáng chức. Điều này là sự phi lý cao độ bởi Thần khi
sống “có tiếng là người trung liệt”,
thác được “Thượng đế khen là trung thực” không có lý do gì để giáng chức. Ngay
cả Lý Thái Tổ cũng vẫn chỉ cho thần giữ lại chức bị giáng? Như vậy khẳng định
khi mất Lý Phục Man hoàn toàn không đứng đầu trăm quan. Không nên ép Lý Phục
Man là Phạm Tu nếu không Thần bị “vu khống” một trọng tội với Thượng đế, với Lý
Nam Đế và với cả Lý Thái Tổ vì đã giấu giếm tên họ và chức vụ trong khi tứ thơ
Ngài đọc rành mạch: “Thiên hạ khi mờ tối,
trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”.
Dễ mắc tội khi quân lắm lắm!
Lịch sử Việt Nam có Phạm Cự Lượng (944-?) là người đầu tiên được phong
Thái úy vào năm 986 dưới triều Tiền Lê. Ngay triều trước-thời Đinh Tiên Hoàng,
người có vị trí đứng đầu quân đội là Lê Hoàn được gọi là Thập đạo tướng quân.
Như vậy từ Đại Việt ngoại sử và văn bia Quán Giá
không thể lấy việc viết Lý Phục Man đánh Lâm Ấp mà đồng nhất vị tướng này với
Phạm Tu. Đồng thời phân tích này cũng làm rõ sự thiếu khoa học ở chứng
cứ thứ 2 của PGS-TS LĐS cho rằng theo Việt điện u linh, Lý Phục Man được phong Thái úy, đứng đầu các quan
nên đồng nhất với Phạm Tu đứng đầu Ban Võ (ghi trong chính sử).
Chứng cứ thứ
3: để lý giải Phạm Tu được gọi là
Lý Phục Man, PGS-TS LĐS cho rằng do có công lao lớn nên Phạm Tu là phò mã được
ban quốc tính “tục danh” Phạm Tu dần lui vào quá khứ,…
Như cuốn sách vừa viết
năm 2010, PGS-TS LĐS cũng cho rằng Phạm Tu là lão tướng. Chúng ta thấy Phạm Tu
đã là lão tướng thì không thể là phò mã, xin khẳng định thêm:
Độ
tuổi của danh tướng Phạm Tu khi tham gia khởi nghĩa Lý Bí
Theo tư liệu Quán Giá thì Lý Phục Man trẻ tuổi (sinh khoảng 505-515), Lý
Bí (503-548) khoảng vừa sang tứ tuần đã gả công chúa cho Tướng quân, nên công
chúa khoảng hai mươi và Tướng quân chắc chắn trẻ hơn Lý Bí và có thể ngoài ba
mươi tuổi. Như vậy có thể Lý Phục Man ngang tuổi với Triệu Quang Phục (?-571).
Trong thời gian từ năm 541 đến đầu năm 545, không đủ thời gian và hoàn
cảnh để Lý Phục Man này trở thành vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà nước
Vạn Xuân. Cùng trang lứa, ngang sức ngang tài thì cả Triệu Quang Phục và Lý
Phục Man đều chưa được xếp là khai quốc công thần hàng đầu của triều đình Vạn
Xuân.
Chúng ta thấy Phạm Tu trong sử sách đã bước qua thời trai trẻ trở thành
thủ lĩnh có uy tín đã ngao du kết bạn với hào kiệt nhiều vùng khác nhau như
Triệu Túc. Phạm Tu sẽ là bậc cha chú của Triệu Quang Phục, Lý Phục Man.
Việc
kiêng tên húy ở làng Giá
Khắp các làng xã giàu truyền thống của Việt Nam, ở đâu cũng đều kiêng tên
húy của vị Thành hoàng làng của mình. Ở làng Giá, kiêng từ Man và thường thay bằng từ Men,
Miêng. Việc kiêng tên này là hợp lý
khi đối chiếu với chính sử vì Thần đã xưng rõ ràng: “Thần là người làng này, họ Lý tên
Phục Man”.
Thần đã xưng tên Phục Man nên
hàng chục thế kỷ trước đây người dân làng Giá đã không khó nhọc tìm kiếm tên
húy của Thần. Ở địa phương đã coi tên của Thần và hiệu của Thần là Phục Man.
Chúng ta tìm ra tên gọi “Phạm Tông” (được coi là vị thân sinh của Thần) xuất
hiện khi nào thì sẽ biết lúc đó có người đã kiếm tìm được tên mới họ Phạm cho
Thần.
Nếu cứ coi Phục Man là hiệu của Tướng quân, kiêng tên gọi
này chứng tỏ cả ngàn năm ở làng Giá không biết tên thật của Lý Phục Man và tên
gọi Phạm Tu quả là xa lạ đối với mảnh đất này!
Nếu Lý Phục Man có tên húy Phạm Tu, tại sao ở làng Giá không kiêng tên Tu? PGS. TS Trương Sỹ Hùng giải thích
trong bài “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man
là một hay hai người” đăng trong Thông
báo Hán Nôm học 2009:
«Khi Phạm Tu được vua ban
quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở
thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu
và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời
không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc
sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ.»
Tại làng Giá, tên tuổi Phạm Tu “dần lui vào quá khứ”?
Ta xác định thời gian tồn tại tên gọi Lý Phục Man của
Tướng quân lúc sinh thời của Ngài: Từ khi khởi nghĩa Lý Bí đến khi Tướng quân
hóa thần lâu nhất là 7 năm (541-548). Tạm coi khi đánh xong Lâm Ấp vào mùa hạ
năm 543, Tướng quân được gọi là Lý Phục Man như vậy rút còn 5 năm. Chưa kể nếu
Tướng quân mất tại chiến thành cửa sông Tô năm 545 thì chỉ có khoảng 2 năm. Vậy
là tên húy của Tướng quân phải mất rất nhanh chóng, chứ đâu còn “dần lui” như tưởng tượng của ông Trương
Sỹ Hùng là đã xảy ra “ngay từ lúc sinh
thời”. Điều này quá phi lý đối với “người
con quang vinh của làng Giá”.
Ngẫm lại câu: “Trăm
năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.” Đúng là: Bia miệng
ở làng Giá đã không có thông tin về Phạm Tu làm sao có thể ghi vào bia đá Quán
Giá?!
Phạm Tu
có được ban quốc tính không?
Một lần nữa căn cứ vào chính sử theo lời của Thần: “họ Lý tên Phục Man” thì bản thân Ngài nhận mình mang họ Lý. Do đó việc
ban quốc tính cũng có thể truyền miệng mà có. Nhưng xét trong Đại Việt sử ký toàn thư thì ở thời Hậu
Lý mới thấy nhà vua ban quốc tính cho một số nhân vật tiêu biểu. Với thời Tiền
Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: Ban cho Tả tướng Phạm Tu
quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó-Triệu Túc không được
ban quốc tính?
Chứng cứ thứ 4: PGS-TS LĐS cho rằng theo truyền thuyết làng Giá thì Lý
Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch ngày 20 tháng 7 Ất Sửu (545) và thần tích
Thanh Liệt phản ánh cái chết Phạm Tu như vậy.
Truyền thuyết làng Giá có viết Lý Phục Man
hy sinh ở cửa sông Tô Lịch vào năm 545 không? Chúng ta hãy đọc công
trình của GS Nguyễn Văn Huyên:
Ngay từ năm
1938, ông đã công bố công trình nghiên cứu có giá trị “Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt
Nam: Lý Phục Man”. Trong tác phẩm này có đoạn viết: “Lý Phục Man chỉ là cái
tên vua ban. Cả tên lẫn họ đều không phải tên họ của Tướng công lúc ra
đời. Được gia ân mang tên họ mới và sau đấy người ta chỉ còn gọi biệt danh
đến nỗi tên gốc hoàn toàn biến mất.”
Công trình
của GS Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu đầy đủ sáng tỏ nhất về vị thành hoàng
Lý Phục Man và di tích Quán Giá[2].
Qua tác phẩm này, cho thấy:
- Lý Phục Man là một nhân vật mang đậm tính truyền thuyết hơn là nhân vật
lịch sử.
- Về cái chết của Lý Phục Man cũng không thống nhất:[3]
+ Lý Phục Man thua quân Lâm Ấp nên tự sát.
+ Lý Phục Man bị thua ở Khuất Lạo nên tự sát (mất khoảng 546-548).
+ Lý Phục Man bị chém đầu nhưng vẫn cưỡi ngựa về làng.
Lưu
ý: Không có sự việc
Lý Phục Man hy sinh năm 545 ở chiến thành cửa sông Tô Lịch. Các văn bia, đại
tự, câu đối ở Quán Giá không nói lên điều này, mà thường có chữ “thất tải” chỉ
giai đoạn 541-548 Lý Phục Man là tướng của Lý Nam Đế đến khi mất (năm 548).
*
Những chứng cứ mà PGS-TS LĐS đưa ra có quá nhiều điều không có sức thuyết
phục. Qua các tư liệu đã nghiên cứu cho thấy thần Lý Phục Man trong giấc mộng
của Lý Thái Tổ (sau gần năm trăm năm kể từ khi Phạm Tu mất) không thể là danh
tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Theo thần tích của hai làng: Quê hương của Phạm Tu ở làng Quang (Thanh
Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) và thần Lý Phục Man là người làng Giá (Yên Sở, Hoài
Đức, Hà Nội). Danh tướng Phạm Tu không phải là Lý Phục Man ở làng Giá.
Xin nêu lại tổng kết đã đăng tải trên blog và sách điện tử “Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm
Tu” về công hiến của Danh tướng Phạm Tu:
1.
Vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu Ban
Võ nhà nước Vạn Xuân (vị Tổng chỉ huy đầu tiên khi nhà nước Việt có bộ máy
chính quyền);
2.
Người sinh ra bên bờ sông Tô; ở tuổi 70, đã hy sinh
oanh liệt ngay ở chiến thành vùng cửa sông Tô (trên đất hương Long Đỗ cổ);
3.
Đánh giặc Bắc: có công lớn trong việc hạ thành Long
Biên, giải phóng đất nước, rồi kháng chiến chống quân Lương xâm lược;
4. Đuổi giặc Nam: người Việt Nam đầu tiên cầm
quân giữ yên bờ cõi phía Nam;
5. Tham mưu cho Lý Nam Đế lập kinh đô, chiến
thành cửa sông Tô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng Long;…
Long Biên,
ngày 07-8-2011
[1] Với thời gian khoảng nửa thế kỷ lập ra một văn bia. Có 3
văn bia đầu cùng nói về thân thế sự nghiệp của Lý Phục Man trong đó văn bia năm
1728 là văn bia quan trọng nhất cơ bản giống với hai văn bia trước, sau đó
không còn văn bia nào viết tiếp nội dung Sự
tích. Văn bia năm 1728 là văn bản đã tổng hợp từ các văn bia và tư liệu
liên quan về Lý Phục Man. Văn bản này là kết
luận rất thống nhất của các nhà trí thức xưa (các nhà Nho trong đó có nhiều
người con làng Giá) về Lý Phục Man.
[2] Mục 6 từ trang 443 đến 619 cuốn Nguyễn Văn Huyên tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh-tập I, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
[3] Nếu trong lịch sử có xảy ra việc Lý
Phục Man hy sinh oanh liệt thì các nhà Nho của làng Giá thời xưa (làng có
Nguyễn Chiêu Khánh đỗ Hoàng giáp năm 1529 làm quan Hàn lâm học sỹ; Trần Danh
Tiêu đỗ Tiến sỹ năm 1733 làm quan đến chức Đông các đại học sỹ đây là người
được đọc ba tấm văn bia cổ về Sự tích
Quán Giá các năm 1620, 1670, 1728) đã tìm được tiếng nói chung. Trong các nhân
vật lịch sử Việt Nam hy sinh vì nước hiếm có ai lại có chuyện kể về lâm chung
phức tạp đến thế. Không thể thống nhất được là Lý Phục Man đã hiển hóa ra sao.
Đăng nhận xét