Thư kêu gọi xây dưng quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam.

Kính gửi các tổ chức, cá nhân, các nhà doanh nghiệp
cùng toàn thể bà con họ Phạm trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, các hoạt động tình nghĩa của Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam cũng như của các Ban Liên lạc họ Phạm các địa phương, của các Hội đồng gia tộc các dòng họ Phạm cả nước đã có nhiều hình thức phong phú, kết quả thiết thực, cụ thể là đã khen thưởng động viên các cháu có bố hoặc mẹ họ Phạm đạt thành tích cao trong học tập và các hoạt động khác, cấp học bổng cho các cháu vượt khó vươn lên học giỏi, đồng thời trợ giúp cho các gia đình họ Phạm gặp khó khăn đặc biệt. Nhiều tổ chức, cá nhân, nhiều nhà doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã đứng ra tài trợ, đóng góp công của cho các hoạt động này, tạo nên tình cảm đồng tộc rất tốt đẹp, đúng với truyền thống văn hiến của Dân tộc ta. Xem tiếp
.

28 tháng 3, 2009

Các Tiến sĩ Nho học họ Phạm ở tỉnh Hải Dương

Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 3 28, 2009 bởi PK.Dương · 0 comments

Phạm Văn Chức
Trưởng Ban Biên tập VH-Văn nghệ - Đài PT-TH Hải Dương
(Sưu tầm & biên soạn)

"Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao. Nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp..." đó là lời tựa của tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn miếu Quốc Tử Giám-Hà Nội.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo nhân tài, nên ngay sau khi giành được quyền độc lập tự chủ sau gần 1000 năm Bắc thuộc, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến giáo dục - đào tạo nhân tài. Năm 1075 (Triều Lý), khoa thi tuyển chọn nhân tài bậc cao đầu tiên của đất nước được tổ chức tại kinh thành Thăng Long và khoa thi cuối cùng về Nho học vào năm 1919 (Triều Nguyễn).

Xứ Đông xưa- Hải Dương nay, là vùng đất giàu tiềm năng và văn hiến, tự hào là nơi cung cấp nhiều nhân tài và vật lực, đóng góp quan trọng vào việc hình thành nên văn hoá phố phường Thăng Long. Trong 9 thế kỷ thi tuyển, nho sĩ Hải Dương đã đạt thành tích vẻ vang. Theo kết quả nghiên cứu hiện nay thì từ khoa thi đầu tiên đến khoa thi cuối cùng, tỉnh Hải Dương (xét theo đơn vị hành chính cả xưa và nay) đều có số Tiến sĩ nho học đứng đầu cả nước về cả cấp tỉnh thành phố, cấp huyện và cấp làng xã.

+ Xét theo đơn vị hành chính cấp tỉnh:- Tỉnh cũ có 637/ 2898 Tiến sĩ, chiếm 22% so với cả nước. Tỉnh mới có 486/2898 tiến sĩ, chiếm 17%.

+ Xét theo đơn vị hành chính cấp huyện: Huyện Nam Sách có 125 Tiến sĩ.

+ Xét theo đơn vị hành chính cấp làng xã thì làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang có 39 vị Tiến sĩ, nhiều nhất cả nước.

Trong tổng số 637 Tiến sĩ Nho học Hải Dương cũ, có 622 vị đã được ghi trong Đăng khoa lục & Các nhà khoa bảng Việt Nam, 15 vị được sưu tầm bổ sung từ các tư liệu khác. Những Tư liệu này đều được chú dẫn sau tiểu sử các vị Tiến sĩ.

Lại nói về sự học, từ Thế kỷ XV Nguyễn Trãi cũng đã nói trong một bài thơ Nôm:

Nên thợ nên thầy vì có học,
No ăn no mặc bởi hay làm.


(Nguyễn Trãi toàn tập- Nxb KHXH-Hà Nội-1978, tr. 454)

đó là chân lý muôn đời.

Noi theo truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, truyền thống trọng đạo học của xứ Đông, cùng với nhiều dòng họ khác trong tỉnh, những người Họ Phạm ở Hải Dương đã có đóng góp đáng kể vào bảng vàng tại tất cả các kỳ thi, qua các triều đại. Gần 1000 năm, trong tổng số 637 vị Tiến sĩ Nho học Hải Dương, người họ Phạm tự hào có 95 vị (15%).

Trong bài biên khảo này, xin lần lượt giới thiệu tới bà con trong dòng tộc họ Phạm, cùng những người quan tâm, tóm tắt về các vị Tiến sĩ họ Phạm Hải Dương theo hệ thống qua các triều đại. Để từ đó chúng ta cùng tự hào thêm, về tổ tiên, về dòng tộc. Cũng thông qua đó, hy vọng mang đến cho bà con trong dòng tộc những thông tin có thể rất cần thiết nào đó trong việc tìm về cội nguồn đối với mỗi chi phái, cành, nhánh... họ Phạm cả nước. Và đó cũng vừa là tình cảm vừa là trách nhiệm của một người con họ Phạm đối với Việc họ. Bài viết được sưu tầm và biên soạn từ những tài liệu tin cậy hiện được lưu hành tại Hải Dương, nhưng rất có thể còn chưa đầy đủ, cần có sự bổ sung của các nhà nghiên cứu, nhà chuyên môn trong và ngoài dòng tộc chúng ta.

Danh sách được thống kê theo niên đại lịch sử. Triều đại nào không có không ghi. Số Tiến sĩ được sắp xếp thứ tự từ 1 đến 93, không theo thứ tự A, B, C...

A. Triều Lý (1010- 1225)

•1- Phạm Tử Hư (? - ?)

Người xã Nghĩa Lư (Nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng). Đỗ Đệ tam giáp, khoa thi Thái học sinh năm Mậu Thìn, đời Lý Huệ Tông, niên hiệu Kiến gia thứ 3 (1213) làm đến Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, phong Trình Quốc công. Ông là ông nội Phạm Văn Tuấn, tằng tổ Phạm Văn Hoán.

B. Triều Trần (1226-1400)

•2- Phạm Văn Tuấn (?-?)

Người xã Nghĩa Lư (Nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng). Ông là cháu Phạm Tử Hư, cha của Phạm Hoán. Đỗ Bảng nhãn, khoa thi Đại tỉ Thủ sĩ năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 15 (1246) đời Trần Thái Tông. Làm quan đến chức Hành khiển, hàm Thái phó, tước Trình Quốc công. Khi mất được tặng Tư đồ.

•3- Phạm Sư Mạnh (?-?)

Người hương Kính Chủ, huyện Giáp Sơn (nay là xã Phạm Mệnh, huyện Kinh Môn). Tự là Nghĩa Phu, hiệu Uý Trai. Là học trò của Chu Văn An, thi đỗ Thái học sinh đời Trần Minh Tông (1314-1329). Năm 1345 được cử tiếp sứ nhà Nguyên. Năm Thiệu Phong thứ 6 (1346) giữ chức Trưởng bạ thư kiêm chức Tham chính viện khu mật. Năm đầu Đại Trị (1358) thăng Nhập nội hành khiển. Sang năm 1359 đổi làm Hành khiển lang trung ở Tả y. Năm 1365 coi việc Viện Khu mật, thăng chức Nhập nội nạp ngôn.

•4- Phạm Hoán (?-?)

Người xã Nghĩa Lư (Nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng). Đậu Thái học sinh niên hiệu Long Khánh 2 (1374) đời Trần Duệ Tôn. Làm quan đến Hàn Lâm học sĩ (Theo Phạm Huy Ôn và Gia phả họ Phạm làng Nghĩa Phú).

C. Triều Lê sơ (1428-1527)

•5- Phạm Như Trung (1413-?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 30 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442). Làm quan đến chức Đông các hiệu thư.

•6- Phạm Bá Khuê (1419-?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa thi Quý Dậu, niên hiệu Thái Hoà 11 (1453). Làm quan đến chức Thị lang. Được cử đi sứ nhà Minh (12-1464). Là ông nội của Phạm Bá Dương, viễn tổ của Tiến sĩ Phạm Hưng Nhân, Phạm Khắc Minh, Phạm Minh Tuấn.

7-Phạm La (?-?) (Liệt truyện đăng khoa bị khảo, chép là Phạm Hoàn)

Người xã An Lạc, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Trắc Châu, xã An Châu, huyện Nam Sách). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái Hoà 11 (1453), được vua chọn làm Phò mã. Làm quan tới chức Chỉ huy thiêm sự.

•8- Phạm Lỗ (?-?)

Người xã Lỗi Dương, huyện Đường An (nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang). 20 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463). Làm quan tới chức Hữu thị lang bộ Hình. Ông là anh của tiến sĩ Phạm Xán.

•9- Phạm Xán (1444 -?)

Người xã Lỗi Dương, huyện Đường An (nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang).

32 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475). Làm quan tới chức Hàn lâm.

Ông là em của Tiến sĩ Phạm Lỗ. (Sách Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục, ghi ông đỗ năm 33 tuổi; Liệt huyện đăng khoa bị khảo, lại ghi ông đỗ năm 22 tuổi).

10- Phạm Miễn Lân (?-?)

Người xã An Trang, huyện Lang Tài, Kinh Bắc (nay là xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478). Làm quan tới chức Đình uý sứ.

* 11- Phạm Chuyết (1439-?)

Người xã Kim Lan, huyện Cẩm Giàng (nay là thôn Kim Quan, xã Kim Giang, huyện Cẩm Giàng). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (1481). Làm quan tới chức Hữu Thị lang.

•12- Phạm Cẩn Trực (?-?)

Người xã Đàm Xá, huyện Trường Tân (nay thuộc xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc).

Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn, niện hiệu Hồng Đức thứ 15

(1484). Làm quan tới chức Phủ doãn phủ Phụng Khiên. Thành viên hội Tao đàn.

•13- Phạm Trí Khiêm (?-?)

Người xã An Trang, huyện Lang Tài, Kinh Bắc (nay là xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). 24 tuổi đỗ Hội nguyên Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484). Làm quan tới chức Đông các hiệu thư. Thành viên hội Tao đàn. (Sách Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục, ghi ông đỗ tiến sĩ năm 34 tuổi).

•14- Phạm Văn Ngọc (1456-?)

Người xã Đồng Khê, huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Lâm, huyện Nam Sách). 29 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức 15 (1484). Làm quan tới chức Giám sát ngự sử.

•15- Phạm Chân (1461-?)

Người xã Kim Lan, huyện Cẩm Giàng (nay là thôn Kim Quan, xã Kim Giang, huyện Cẩm Giàng). 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487). Làm quan tới chức Đông các đại học sĩ.

* 16- Phạm Hạo (?-?)

Người xã Quỳnh Khê, huyện Kim Thành (nay là thôn Quỳnh Khê, xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành). Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487). Làm quan tới chức Thượng thư. Ông là hậu duệ của Phạm Mại, ông nội của Phạm Gia Mô.

•17- Phạm Tuấn (1453-?)

Người xã Truân Bối, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Đồn Bối, xã Nam Hồng, huyện Nam Sách). 35 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487). Làm quan tới chức Tri phủ.

•18- Phạm Quảng Hiếu (1447 -?)

Người xã Uông Hạ, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Uông Hạ, xã Minh Tân, huyện Nam Sách). 44 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490). Làm quan tới chức Thị Lang.

•19- Phạm Ngọc Uyên (? - ?)

Quê Mặc Dương - Tứ Kỳ, đỗ Đệ nhị giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490).

•20- Phạm Tông (1461 - ?)


Người xã An Lương, huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Lâm, huyện Nam Sách). 30 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490). Làm quan tới chức Hiến sát sứ.

•21- Phạm Dương (1470 - ?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 24 tuổi đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức 24 (1493). Làm quan tới chức Tham chính.

Ông là cháu nội của tiến sĩ Phạm Bá Khuê, là bác của Phạm Hưng Nhân, ông nội Phạm Khắc Minh, tằng tổ Phạm Văn Tuấn.

* 22- Phạm Cảnh Lương (? - ?)

Người xã Bất Náo, huyện Kim Thành (nay thuộc xã Kim Anh, huyện Kim Thành). Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức 27 (1496).

•23- Phạm Duy Viên (?- ?)

Người thôn Ngọc Cục, huyện Đường An (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499). Làm quan tới chức Lục sự.

•24- Phạm Quang Tán (1474 - ?)

Người xã Mạn Nhuế, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 26 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống 2 (1499). Làm quan tới chức Tham chính.

Ông là cha Phạm Y Doãn (còn có tên là Toàn), ông nội của Phạm Phúc Khánh.

•25- Phạm Bỉnh Toàn (? - ?)

Người xã Ngọc Kỳ thượng, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Tứ Kỳ thượng, xã Ngọc Kỳ, huyện Tứ Kỳ). Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505).

•26- Phạm Đôn Thước (1484 - ?)

Người xã Lạc Thực, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Lạc Thực, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách). 22 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505). Làm quan tới chức Hiến sát sứ.

* 27- Phạm Gia Mô (1474 - ?)

Người xã Quỳnh Khê, huyện Kim Thành (nay là thôn Quỳnh Khê, xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành). 30 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505). Làm quan tới chức Thượng thư, gia phong chức Bình chương quân quốc sự, hàm Thái sư, tước Hải quốc công.

Nguyên quán xã Lê Xá, huyện Nghi Dương (Nay là thôn Lê Xá, xã Tú Sơn, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng). Được mở phủ đệ riêng. Cháu ba đời của Phạm Cao, cháu xa đời của Phạm Mại (đời Trần).

* 28- Phạm Thuần Nhân (? - ?)

Người xã Bì Đổ, huyện Đường An (nay thuộc xã Cổ Bì, huyện Bình Giang). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505). Làm quan tới chức Hình bộ hữu Thị lang. Ông từng được cử đi sứ nhà Minh.

* 29- Phạm Nguyên (?- ?)

Người xã Triền Đông, huyện Đường An (nay là thôn Lý Đông, xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Giang). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511). Làm quan tới chức Phó Đô ngự sử.

30-Phạm Vĩnh Toán (1488 - ?)

Người xã Hoa Xá, huyện Gia Phúc (nay thuộc xã Hồng Hưng, huyện Gia Lộc). 24 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511). Làm quan tới chức Thượng thư, tước hầu. Khi mất được thăng Quận công.

31- Phạm Chính Nghị (1486-?)

Người xã An Trang, huyện Lang Tài, Kinh Bắc (nay là xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). 29 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514). Làm quan tới chức Thượng thư, tước bá.

Ông là con của Phạm Miễn. " Lịch huyện đăng khoa bị khảo" ghi đỗ năm 24 tuổi, chức quan Văn trường bá. Làm quan thời nhà Mạc.

32-Phạm Thọ Chất (? - ?)

Người xã Cao La (nay là thôn Cao La, xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ). Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514). Làm quan tới chức Thượng thư.

* 33- Phạm Doãn Chấp (?-?)

Người xã Đồng Lại, huyện Trường Tân (nay là thôn Đồng Lại, xã Liên Hồng, huyện Gia Lộc). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên 2 (1523). Làm quan tới chức Giám sát ngự sử.

* 34- Phạm Doãn Giản (?-?)

Người thôn Phan Hà (Phan Xá), huyện Tứ Kỳ (nay thuộc xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên 2 (1523). Làm quan tới chức Thừa chính sứ. " Liệt huyện đăng khoa bị khảo" ghi là Nguyễn Doãn Giản.

* 35- Phạm Hưng Nhân (? - ?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 26 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên 2 (1523). Làm quan tới chức Tham chính.

* 36- Phạm Quả Đoán (?-?)

Người xã Cao Duệ, huyện Gia Phúc (nay là thôn Cao Duệ, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên 2 (1523). Làm quan tới chức Đề hình giám sát ngự sử.

37-Phạm Sở Ngọc (1483 - ?)

Người xã Đồng Khê, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thôn Đồng Khê, xã An Lâm, huyện Nam Sách). 41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên 2 (1523). Làm quan tới chức Thừa chính sứ.

38-Phạm Minh Lượng (1496 -?)

Người xã Kim Lan, huyện Cẩm Giàng (nay là thôn Kim Quan, xã Kim Giang, huyện Cẩm Giàng). 31 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất, niên hiệu Thống Nguyên 5 (1526). Làm quan tới chức Thượng thư, tước bá.

Nguyên tên ông là Phạm Quang Tá, đã dự thi Hội khoa Canh Thìn, niên hiệu Quang Thiệu 2 (1520) và được lấy trúng cách. Vì ông giấu việc gia đình có tang mà vào thi Đình nên bị truất khảo không được thi. Đến khoa thi Bính Tuất, Thống Nguyên 5 (1526) lại thi nhưng đổi tên là Phạm Minh Lượng.

39- Phạm Vĩnh Truyền (1474 -?)


Người xã An Trang, huyện Lang Tài, Kinh Bắc (nay là xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). 53 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất, niên hiệu Thống Nguyên 5 (1526). Làm quan tới chức Thượng thư, tước hầu.

D. Triều Mạc (1527-1592)

40-Phạm Huy (? - ?)

Người xã Mạc Xá, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Mạc Xá, xã Minh Tân, huyện Nam Sách). Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức 3 (1529). Làm quan tới chức Tham chính.

•41- Phạm Khánh Tường (1510 -?)

Người xã Cao Duệ, huyện Trường Tân (nay là thôn Cao Duệ, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Đại Chính 3 (1532). Làm quan tới chức Tham chính.

•42- Phạm Khắc Hựu (?-?)

Người xã Sùng Đức, huyện Gia Phúc (nay là thôn Thị Đức, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Đại Chính 3 (1532). Làm quan tới chức Đề hình giám sát ngự sử.

•43- Phạm Duy Tinh (1510 -?)

Người xã Tùng Xá, huyện Gia Phúc (nay thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện). 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính 9 (1538). Làm quan tới chức Thừa chính sứ.

•44- Phạm Khuông Đỉnh (?-?)

Người xã An Trang, huyện Lang Tài, Kinh Bắc (nay thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính 9 (1538). Làm quan tới chức Hàn lâm viện kiểm thảo.

" Lịch huyện đăng khoa bị khảo" chép nhầm vào niên hiệu Đại Chính 6.

•45- Phạm Công Sâm (1504 - ?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 38 tuổi đỗ Đệ nhất giáp đồng Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn), khoa Tân Sửu, đời Mạc Phúc Hải, niên hiệu Quảng Hoà 1 (1541). Làm quan tới chức Thừa chính sứ.

•46- Phạm Nguyện (1506 - ?)

Người xã Phúc Khê, huyện Đường An (nay thuộc thôn Lôi Khê, xã Hồng Khê, huyện Bình Giang). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Sửu, đời Mạc Phúc Hải, niên hiệu Quảng Hoà 1 (1541). Làm quan tới chức Hàn lâm.

" Lịch huyện đăng khoa bị khảo" ghi đỗ năm 36 tuổi.

•47- Phạm Lệnh Nhân (1524 - ?)

Người xã Đồng Khê, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Đồng Khê, xã An Lâm, huyện Nam Sách). 30 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch 6 (1553). Làm quan tới chức Thị Lang.

•48- Phạm Xưởng (1524 - ?)

Người xã Luỹ Dương, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Luỹ Dương, xã Gia Lương, huyện Gia Lộc). 39 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch 6 (1553). Làm quan tới chức Hiến sát sứ.

•49- Phạm Trấn (1523 - ?)

Người xã Lam Kiều, huyện Gia Phúc (nay là thôn Lam Cầu, xã Phạm Trấn, huyện Gia Lộc). 34 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng Nguyên), khoa Bính Thìn, niên hiệu Quang Bảo 2 (1556). Làm quan tới chức Thừa chính sứ.

•50- Phạm Đăng Sĩ (1514 - ?)

Người xã Đoàn Bái, huyện Gia Phúc (nay là thôn Đoàn Bái, xã Toàn Thắng, huyện Gia Lộc). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Quang Bảo 5 (1559). Làm quan tới chức Thừa chính sứ. Ông là bác họ của Tiến sĩ Phạm Hồng Nho.

•51- Phạm Duy Quyết (1521 - ?)

Người xã Xác Khê, huyện Chí Linh (nay là thôn Kim Khê, xã Cộng Hoà, huyện Nam Sách). 42 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng Nguyên), khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Quang Bảo 9 (1562). Làm quan tới chức Đông các đại học sĩ, tả Thị Lang, tước Xác Khê Hầu. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư.

" Liệt truyện Đăng khoa bị khảo" ghi là Phạm Duy Ưởng; " Danh nhân truyện ký" lại ghi tên ông là Phạm Duy Anh. Có sách còn ghi tên ông là Phạm Duy Trĩ. Khoa thi này (1562) chỉ lấy đỗ 18 Tiến sĩ.

Ông là học trò của Nguyễn Khắc Kính và thầy trò cùng dự thi một khoá. Nguyễn Khắc Kính chỉ đỗ Tiến sĩ. Vì thế trong dân gian có câu: " Trò Trạng nguyên, thầy Tiến sĩ ".

•52- Phạm Hoành Tài (1530 - ?)

Người xã Thượng Đỗ, huyện Kim Thành (nay là thôn Thượng Đỗ, xã Thượng Vũ, huyện Kim Thành). 26 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Ất Sửu, niên hiệu Thuần Phúc 4 (1565). Làm quan tới chức Tự khanh kiêm Đông các.

•53- Phạm Điển (1531 - ?)

Người xã Ngọc Cục, huyện Đường An (nay là thôn Ngọc Cục, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang). 38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Thìn, đời Mạc Mậu Hợp, niên hiệu Sùng Khang 3 (1568). Làm quan tới chức Lễ bộ tả Thị lang. Ông là cha Tiến sĩ Phạm Liễn.

•54- Phạm Khắc Kiệm (1529 - ?)

Người xã An Vệ, huyện Gia Phúc (nay là thôn An Vệ, xã Đức Xương, huyện Gia Lộc). 43 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Tân Mùi, niên hiệu Sùng Khang 6 (1571). Sau theo giúp nhà Lê. Làm quan tới chức Thừa chính sứ.

•55- Phạm Thọ Khảo (1543 - ?)

Người xã La Xá, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn La Xá, xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ). 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Mùi, niên hiệu Sùng Khang 6 (1571). Làm quan tới chức Tả thị lang bộ Lễ.

•56- Phạm Duy Tinh (1546 - ?)

Người xã Hàm Cách, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Hàm Cách, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ). 32 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Đinh Sửu, niên hiệu Sùng Khang 12 (1577). Làm quan tới chức Cấp sự trung.

•57- Phạm Khắc Minh (1545 - ?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay là thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 36 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Thìn, niên hiệu Diên Thành 3 (1580). Làm quan tới chức Thượng thư, tước hầu. Ông là bác Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn, ông nội của Phạm Văn Khuê.

•58- Phạm Đình Quang (? - ?)

Người quán An Trang, trú quán tại xã Cổ Lãm, huyện Lang Tài (nay là An Trang, thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng). Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất, niên hiệu Thống Nguyên 5 (1526). Làm quan tới chức Hiến sát sứ.

•59- Phạm Đức Mậu (1551 - ?)

Người xã Nghĩa Dũng (nay là thôn Nghĩa Dũng, xã Đại Đồng, huyện Tứ Kỳ). 33 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Diên Thành 6 (1583). Làm quan tới chức Cấp sự trung.

" Liệt huyện đăng khoa bị khảo" ghi đỗ năm 22 tuổi, sau thăng Giám sát ngự sử.

•60- Phạm Hiến (1552 - ?)

Người xã Thiên Đồng, huyện Kim Thành (nay là thôn Thiên Đồng, xã Kim Tân, huyện Kim Thành). 35 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất, niên hiệu Đoan Thái 1 (1586). Làm quan tới chức Đề hình giám sát ngự sử. Quy thuận nhà Lê, sau quay về làm quan với nhà Mạc.

•61- Phạm Minh Nghĩa (1558 - ?)

Người xã Phí Xá, huyện Thanh Miện (nay thuộc xã Lê Hồng, huyện Thanh Miện). 29 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Bính Tuất, niên hiệu Đoan Thái 1 (1586). Làm quan tới chức Đề hình giám sát ngự sử.

Trú quán xã Kinh Dương, tổng Chiêu Lai, huyện Đường Hào (Nay thuộc xã Thái Dương, huyện Bình Giang). Sau theo về nhà Lê, được thăng chức Tham chính.

•62- Phạm Khắc Khoan (1544 - ?)

Người xã Mạc Xá, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Mạc Xá, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ). 46 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589). Làm quan tới chức Tham chính.

•63- Phạm Viết Tuấn (1549 - ?)

Người xã La Xuyên, huyện Thanh Lâm (nay là thôn La Xuyên, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách). 41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589). Làm quan tới chức quan Giám sát ngự sử, tước Trí Xuyên bá. Sau quy thuận nhà Lê.

•64- Phạm Doãn Toàn (1563 - ?)


Người xã Mạn Nhuế, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Mạn Nhuế, thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589). Làm quan tới chức quan Giám sát ngự sử.

Quy thuận nhà Lê, làm quan thời này. Ông là con của Phạm Quang Tán, là cha của Phạm Phúc Khánh.

" Lịch triều đăng khoa lục" ghi nhầm là Phạm Y Toàn.

•65- Phạm Hồng Nho (1555 - ?)

Người xã Đoàn Bái, huyện Gia Phúc (nay là thôn Bái, xã Toàn Thắng, huyện Gia Lộc). 38 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592). Làm quan tới chức hữu Thị lang, tước bá. Tham chính xứ Kinh Bắc.

" Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục" ghi tên là Phạm Mậu Nho, người xã Đoàn Bái, huyện Gia Lâm.

E. Triều Lê Trung Hưng

•66- Phạm Khuê (1564 - ?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay là thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 47 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, đời Lê Kính Tông, niên hiệu Hoằng Định 11 (1610). Làm quan tới chức Hàn lâm viện hiệu thảo.

Ông là cháu nội Tiến sĩ Phạm Khắc Minh, ông nội Phạm Văn Tuấn.

•67- Phạm Phúc Khánh (1579 - ?)


Người xã Mạn Nhuế, huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 45 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Hợi, niên hiệu Vĩnh Tộ 5 (1623). Làm quan tới chức Tự khanh, tước tử. Ông là cháu nội của Phạm Quang Tán, con của Phạm Y Toàn.

•68- Phạm Liễn (1584 - ?)

Người xã Ngọc Cục, huyện Đường An (nay là thôn Ngọc Cục, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang). 54 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hoà 3 (1637). Làm quan tới chức quan Công bộ hữu Thị lang, về trí sĩ. Ông là con của Phạm Điển, khi mất được tặng chức Hữu thị lang bộ Hộ.

•69- Phạm Đậu (1610 - ?)


Người xã Thái Thạch (nay là thôn Thái Thạch, xã Hùng Sơn, huyện Thanh Miện). 31 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hoà 6 (1640). Làm quan tới chức Hình khoa đô cấp sự trung, tước nam.

•70- Phạm Văn Tuấn (1598 - ?)

Người xã Nhân Lý, huyện Thanh Lâm (nay là thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách). 49 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái 4 (1646). Làm quan tới chức Giám sát.

Ông là cháu nội Phạm Khuê, cháu họ Phạm Khắc Minh, viễn tôn Phạm Hưng Nhân, đều là Tiến Sĩ.

•71- Phạm Tĩnh (1629 - ?)

Người xã Mặc Xá (nay là thôn Mặc Xá, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ). Thi hương đỗ Giải nguyên. 42 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670). Làm quan tới chức Tham chính.

Ông là cháu nội của Phạm Khắc Khoan.

•72- Phạm Hữu Dung (1652 - ?)


Người xã Ngọc Cục, huyện Đường An (nay là thôn Ngọc Cục, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang). Trước đã đỗ khoa Sĩ Vọng, 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Thân, niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1680). Làm quan tới chức Cấp sự trung.

•73- Phạm Minh (1672 - 1746)

Người xã My Thự, huyện Đường An (nay là xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Giang). 32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Chính Hoà 24 (1703). Làm quan tới chức Tả thị lang bộ Công, tước hầu, về trí sĩ. Sau đổi tên là Phạm Ích Minh. Khi mất được tặng chức Thượng thư.

•74- Phạm Đỉnh Chung (1687 - ?)

Người xã Tuấn Kiệt, huyện Đường An (nay thuộc xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang). 38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn, niên hiệu Bảo Thái 5 (1724). Làm quan tới chức Hữu thị lang, về trí sĩ, sau khi mất được tặng chức Hữu thị lang bộ Hộ.

Bia "Bảo Thái ngũ niên Giáp Thìn khoa tiến sĩ đề danh ký" ghi tên ông cùng tên các tiến sĩ đồng khoa, dựng tại Văn miếu Quốc Tử giám, Hà Nội.

•75- Phạm Trọng Côn (1689 - ?)

Người làng Đan Trường, huyện Cẩm Giàng (nay là thôn Đan Tràng, xã Đức Chính, huyện Cẩm Giàng). 36 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn, niên hiệu Bảo Thái 5 (1724). Làm quan đến hàm Đãi chế, về trí sĩ.

•76- Phạm Dương Ưng (1737 - ?)

Người xã Hoa Đường, huyện Đường An (nay thuộc thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang). Trú quán phường Phục Cổ, huyện Thọ Xương, Hà Nội. Thi Hương đỗ Giải Nguyên, 27 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763). Làm quan tới chức Đông các học sĩ, Phó đốc thị đạo Thuận Quảng.

•77- Phạm Đồng Viện (1717 - ?)

Người xã La Đôi, huyện Thanh Lâm (nay là thôn La Đôi, xã Hợp Tiến, huyện Nam Sách). 50 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766). Chức quan Thị giảng, về trí sĩ. Sau đổi tên là Phạm Đình Toại.

•78- Phạm Quý Thích (1759 - 1825)

Tự Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, Thảo Đường cư sĩ. Người xã Hoa Đường, huyện Đường An (nay thuộc thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang). 20 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779). Làm quan tới chức Thiêm sai tri công phiên.

Thời Tây Sơn về ở ẩn. Khi Gia Long lên ngôi triệu ông vào Phú Xuân bổ chức Thị trung học sĩ, tước Thích an hầu, đốc phủ Hoài Đức (Hà Đông). Năm Đinh Mão (1807) làm Giám thi trường thi Sơn Nam. Sau ông cáo quan về dạy học, nhiều người thành đạt. Ông mất tại quê nhà. Ông là người soạn một số văn bia hiện còn trên địa bàn thành phố Hà Nội.


TIẾN SĨ NHO HỌC ĐẤT HẢI DƯƠNG XƯA, NAY THUỘC TỈNH KHÁC

•I- Chuyển sang Hải Phòng

•79- Phạm Đức Khản

Người xã Hội Am, huyện Vĩnh Lại (nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Có tài liệu ghi là Phạm Đức Trung. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà 6 (1448), đời Lê Nhân Tông, làm quan đến chức Tả thị lang.

•80- Phạm Bá

Người xã Phắc Xuyên, huyện Tân Minh (nay là thôn Phác Xuyên, xã Bạch Đằng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng). Đỗ Đình nguyên Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận 10 (1469), làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, nhập thị kinh diên, tước Xuyên quận công trí sĩ.

•81- Phạm Minh Du (1491 - ?)

Người xã Cẩm Hà, huyện An Lão, theo LHĐK là xã Cẩm Bồ, huyện Tiên Minh, (nay thuộc huyện An Hải, Hải Phòng). Cha của Phạm Đốc Phi. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514), đời Lê Tương Dực, làm quan đến chức Thừa chính sứ.

•82- Phạm Tri Chỉ

Người xã Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Bắc Tạ, xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Sùng Khang 3 (1568), đời Mạc Mậu Hợp, quy thuận nhà Lê, làm quan đến chức Thị lang.

•83- Phạm Đình Trọng (1714 - 1754)

Người xã Khinh Dao, huyện Giáp Sơn (nay là thôn Khinh Dao, xã An Hưng, huyện An Hải, Hải Phòng). 26 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu 5 (1739), đời Lê Ý Tông, từng giữ chức Phó đô ngự sử. Bồi tụng, tước Dao lĩnh hầu. Hiệp trấn ba đạo Đông, Nam, Bắc thống lĩnh quân dẹp Nguyễn Hữu Cầu, thăng Thượng thư bộ Binh, hàm Thái tuế, thái phó, tước Hải quận công, mất tại quân doanh truy tặng tước Đại vương, phong Phúc thần.

•II- Chuyển sang Hưng Yên

•84- Phạm Hựu (1522 - ?)

Người xã Đào Xá, huyện Đường An (nay là thôn Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi). 50 tuổi đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Mùi, niên hiệu Sùng Khang 6 (1571), đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức Tham chính.

•85- Phạm Hữu Năng (1563 - ?)

Người xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng (nay thuộc thôn Cẩm Sơn, xã Cẩm Xá, huyện Mỹ Hào). 30 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592), đời Mạc Mậu Hợp. LHĐK ghi năm 36 tuổi đỗ Đình nguyên. Theo nhà Lê làm đến chức Hiến sát sứ.

•86- Phạm Công Trứ (1602 - 1675)

Người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào (nay là thôn Liêu Xuyên, xã Nghĩa Hiệp, huyện Mỹ Hào). Cha của Phạm Công Phương.

27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 10 (1628), đời Lê Thần Tông. Làm quan đến Tham tụng, Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, chưởng lục bộ sự, Thiếu bảo được ban Quốc Lão, tước Yên quận công.

•87- Phạm Quang Chiếu (1650 - ?)

Người xã Đào Xá, huyện Đường An (nay là thôn Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi). 27 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676), đời Lê hy Tông. Làm quan đến chức Cấp sự trung. Sau khi mất tặng Đô cấp sự trung.

•88- Phạm Công Phương (1642 - ?)

Người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào (nay là thôn Liêu Xuyên, xã Nghĩa Hiệp, huyện Mỹ Hào). Con của Phạm Công Trứ.

39 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Thân, niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1680), đời Lê Hy Tông. Làm quan đến chức Cấp sự trung. Sau khi mất tặng Binh khoa đô cấp sự trung, Tước nam.

•89- Phạm Sĩ Thuyên (1697 - ?)

Người xã Trung Lập, huyện Đường Hào (nay là thôn Trung Lập, xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào). Thi Hương đỗ Giải nguyên, 47 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743). Làm quan đến chức Hàn lâm thị thư, Tước bá, về trí sĩ.

•90- Phạm Sĩ Ái (1806 - ?)

Người xã Trung Lập, huyện Đường Hào (nay là thôn Trung Lập, xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào). Cử nhân khoa Mậu Tý (1828). 27 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832). Làm quan đến chức Hàn lâm viện biên tu. Tri phủ Cam lộ án sát Hà Tĩnh, Thị lang bộ Binh, chủ khảo trường thi Gia Định. Bị ốm mất tại chức.

•91- Phạm Xuân (1850 - ?)

Người xã Bạch Sam, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương (nay là xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào). Cử nhân khoa Giáp Tuất (1874). 26 tuổi đỗ Phó bảng, khoa Ất Hợi, niên hiệu Tự Đức (1875). Làm quan ngự sử.

•92- Phạm Văn Thụ (1858 - 1930)

Tự Đàn Viên, hiệu Đông Bạch Thái. Người xã Bạch Sam, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương (nay là xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào). Cử nhân khoa Tân Mão (1891). 35 tuổi đỗ Phó bảng, khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Thái 4 (1892). Làm Liêm phóng sứ ở Phủ Thống sứ (Pháp), sau là Tri phủ Tiên Hưng, Tổng đốc Nam Định, vào Huế thăng chức Thượng thư bộ Hộ.

 •III- Chuyển sang Bắc Ninh

•93- Phạm Đoan Lương

Người xã Lại Thượng, huyện Thanh Lâm (nay là thôn Lại Nguyễn, xã Lại Hạ, huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Trú quán xã Phấn Lôi, huyện Yên Dũng (ngay là thôn Phấn Lôi, xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng, Bắc Giang).

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Bính Thìn, niên hiệu Quang Bảo 2 (1556), đời Mạc Phúc Nguyên. LHĐK ghi đỗ năm 24 tuổi. Làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang, Tham dưỡng Hàn lâm viện sự.


BIỆT LỤC

+ Phạm Kính

Người xã Mặc Dương, huyện Tứ Kỳ (nay thuộc xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương). Đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch 5 (1553). Theo "Tứ Kỳ Phong vật chí".

+ Phạm Duy Chu

Người xã La Xá, huyện Tứ Kỳ (nay thuộc xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương). Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Mùi, niên hiệu Chính Trị 14 (1571). Theo " Tứ Kỳ Phong vật chí".

-----------------------------------------------------
Rất mong nhận được sự quan tâm, tra cứu bổ sung, chỉnh lý...của dòng tộc trong toàn quốc. Tác giả xin trân trọng cảm ơn!

Mọi chi tiết xin liên hệ:

PHẠM VĂN CHỨC

Trưởng ban Văn nghệ- Đài PT-TH Hải Dương
Nhà riêng: 12/1 ngõ 73, Tập thể Tuệ Tĩnh, phường Nguyễn Trãi, TP. Hải Dương.
Điện thoại: (0320) 6. 259. 309 ; (0320) 2. 470. 215; DĐ: 0982. 199. 309
Có 0 nhận xét cho bài này "Các Tiến sĩ Nho học họ Phạm ở tỉnh Hải Dương"

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails
 
Trang web của BLL Họ Phạm Việt Nam chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 2/2005. Xem phiên bản cũ tại đây
Vui lòng để liên kết về nguồn tin nếu bạn xuất bản lại thông tin trên trang web này.


Trang web được xây dựng từ nền tảng Blogger.com, cung cấp bởi